Cả vùng Sơn Tây (Hà Nội) nước ngập mênh mông, nhà cửa ruộng vườn chìm trong biển nước. Nhưng người dân sống gần Chùa Mía vẫn bình yên vô sự bởi nước chỉ bò đến cổng Đông, phải bảy tám trăm mét nữa mới tới cửa Tam quan chùa.
Không biết ngôi chùa có từ lúc nào, nhưng theo cụ Hoàng, nó là nơi dân làng trú ngụ vào những trận lũ lớn
Ký ức của cụ bà tuổi ngót chín mươi vẫn còn lưu giữ như in trận lụt kinh hoàng do vỡ đê sông Hồng năm 1945.
Cõi Phật tâm linh che chở người đời
Với đôi mắt tinh, cụ Hoàng ngừng nhai trầu hồi tưởng lại trận đại hồng thủy năm ấy: "Nghe tin vỡ đê, lại đúng năm cả nước gặp nạn chết đói. Lo và sợ lắm! Cả dân làng dừng việc chạy chợ, kiếm ăn, tất tả về làng tránh lũ".
Lúc đó nước lũ kéo về, tiếng nước, tiếng mưa gầm réo, nhưng thật kỳ lạ, nước chỉ bò qua cổng làng, chảy chậm dần rồi dừng lại giữa con dốc trước cổng Đông. Đường đi vào vẫn khô ráo như thường.
"Nước lũ kéo về cuồn cuộn, dâng cao ngất, nhưng lạ thay, không sao nước bò tới thềm chùa được. Ngoài mấy con nghé, con bê, lũ gà hoảng loạn không chạy được mới bị nước cuốn trôi, chứ người già, người trẻ trong làng bình yên vô sự. Dường như một bàn tay vô hình nào đó chở che!", cụ Hoàng ngẫm nghĩ, cất tiếng như tự nói với mình.
Ngôi chùa bảo vệ dân làng trước thiên tai
Theo sự hướng dẫn của cụ Hoàng, chúng tôi đi trên con đường, ngày xưa nghe nói đắp bằng đất đỏ, dốc lên dốc xuống quanh co, nay uốn thẳng rải nhựa dẫn lối lên ngôi chùa kỳ lạ này.
Thế đất cao, chúng tôi phải ngước lên nhìn mới đụng cửa Tam quan. Xin phép Sư thầy trụ trì để bước vào cõi Phật. Hai bên Đại hùng Bảo điện trước ban Tam Bảo, hai tượng Hộ Pháp sừng sững uy nghi.
Ông Nguyễn Quốc Quân, một người giữ gien giống Gà Mía quý hiếm mời chúng tôi về nhà chơi và kể lại câu chuyện liên quan tới ngôi chùa và hai ông Hộ Pháp. Chuyện cũng ly kỳ không kém trận đại hồng thủy năm nào.
Khi giặc kéo đến, đạn bắn liên hồi, người dân chỉ cần núp sau ông hộ pháp là không ai bị trúng đạn
Ông Quân kể: "Năm 1947, Pháp mở trận càn lên vùng đất Mía. Súng Mooc - chê bắn đì đùng. Làng bên nhiều người thiệt mạng. Những ngôi nhà đá ong bị đạn bắn thủng, tróc lở. Đất đá bị sới tung vung lên trời rào rào. Dân làng Đông Sàng lũ lượt kéo lên chùa Mía, ẩn nấp sau lưng hai ông Hộ Pháp. Lạ một điều, đạn giặc như bị bàn tay vô hình đẩy lạc hướng và không một viên nào rơi vào nổi không gian của chùa, nên không có ai bị thương".
Tượng Phật chùa Mía mỗi pho một vẻ, thân thiện như dáng vẻ đời thường. Trẻ con vào chùa nhìn Phật, đêm không mơ mấc mộng mị.
Ông Đức Lợi một thư pháp gia của làng cho biết: "Mỗi độ Tết về, tôi kê bàn viết thư pháp chữ Hán trước cửa chùa lại trầm ngâm nhớ về tuổi ấu thơ. Hồi ấy, cứ ra vườn chùa hái chiếc lá na, ấp lên quyển sách trên tay ông La Hán rồi đọc, bỗng thông minh, học hành minh mẫn hẳn".
Dường như người dân quê nơi đây đều có những kỷ niệm về ngôi chùa thân thuộc vùng quê họ. Có thể hỏi bất cứ ai, từ già đến trẻ, chúng tôi cũng có được thông tin về chùa, về tượng phật trong chùa.
Chuông chùa hai tỉnh cùng nghe
Ngôi tháp Cửu phẩm liên hoa được nhà chùa hưng công dân xã và du khách thập phương dựng lên mới hơn chục năm, nhưng vẻ bề thế bên cây đa tuổi thọ ngoài nửa thế kỷ luôn hút ánh nhìn của chúng tôi.
Ngôi chùa tọa lạc tại nơi cao nhất của làng
Chùa Mía nằm trên đỉnh một ngọn đồi cao nhất trong vùng, ngôi tháp vươn vút trời xanh trấn giữ mạch văn, giữ sự phồn vinh hưng thịnh của làng. Chiều về, từ đỉnh tháp, từng tiếng chuông ngân xa, vượt đất Sơn Tây, bay qua sóng gió sông Hồng vọng đến đất Phú thọ. Hồi chuông hai tỉnh cùng nghe.
Ngồi uống bát nước chè xanh, đặc sản "nước giếng Hè, chè Cam Lâm" ở quán nước trước cổng chùa Mía, chúng tôi may mắn được nghe một câu chuyện huyền thoại về Bà Chúa Mía.
Đức Lợi một thư pháp gia của làng cho biết: "Mỗi độ Tết về, tôi kê bàn viết thư pháp chữ Hán trước cửa chùa lại trầm ngâm nhớ về tuổi ấu thơ. Hồi ấy, cứ ra vườn chùa hái chiếc lá na, ấp lên quyển sách trên tay ông La Hán rồi đọc, bỗng thông minh, học hành minh mẫn hẳn"
Đó là vào khoảng Thế kỷ XVII, ngôi chùa cổ có tên chữ "Sùng Nghiêm Tự" bị hư hỏng, điêu tàn đổ nát. Cung phi Ngọc Dung còn gọi là Ngô Thị Ngọc Diệu, được dân Đông Sàng đón rước mời cư trú.
Bà vốn người làng Nam Nguyễn (Nam An), là phi tần được sủng ái trong phủ chúa Trịnh Tráng (1623-1657). Người dân trong vùng cảm ân đức bà xây chùa, xây chợ, mở bến đò Hà Tân thông thương kinh tế, văn hóa hai vùng Sơn Tây - Phú Thọ nên tôn sùng bà là "Bà Chùa Mía".
Vào năm 1632, đã đứng ra khuyến mộ thiện nam tín nữ các làng Đông Sàng, Mông Phụ, Cam Thịnh, Cam Toàn... và các làng thuộc Tổng Mía cũ cùng tôn tạo lại. Trải qua năm tháng, Chùa Mía được tu bổ nhiều lần, nhưng về quy mô, kiến trúc vẫn được giữ gần như nguyên vẹn. Tấm bia dưới gác chuông ghi năm Vĩnh Tộ thứ ba (1621) nói khá kỹ về việc lập nên và tu sửa chùa.
Một cõi bình yên, linh thiêng cho mỗi người con của làng khi về thăm quê hương
Từ những năm đầu của nước Việt Nam Độc lập, Chùa Mía đã được công nhận Danh lam thắng cảnh đã xếp hạng. Tháng 5 năm 2006, ngôi chùa tiếp tục được Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh kết hợp với Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam công bố thuộc về 10 kỷ lục văn hóa Phật giáo Việt Nam bởi nơi đây lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt Nam.
Chùa có đến 287 pho tượng thờ, trong đó có 174 tượng bằng đất nung sơn son thếp vàng, 107 tượng mộc và sáu pho tượng bằng đồng.
Tiếng chuông boong...boong làm dịu đi cái nóng oi ả trong mỗi chúng tôi. Chiều tà Đường lâm đang về. Trong cái không gian bình yên đến tĩnh lặng, cảnh trí chùa càng trở nên thiền "sắc sắc không không".
Sáng sớm, đứng trước cửa chùa, trên bậc Tam quan nhìn xuống chợ Tam Bảo, sẽ thấy một biển người tíu tít bán mua. Trên Chùa dưới chợ, phong cảnh đời thường đến bình dị.