Tấm bia bị gẫy làm đôi.
Tuy bị vỡ làm đôi và nét chữ bị mờ nhưng các nhà khảo cổ vẫn cố gắng tìm kiếm thông điệp từ bảo vật cách đây tròn 1.700 năm.
Bia cổ thời Đông Ngô
Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh, ông Lê Viết Nga tiết lộ: "Vừa qua ngành khảo cổ đã phát hiện một tấm bia đá cổ tại nghè thôn Thanh Hoài, xã Thanh Khương (Thuận Thành). Tấm bia đá gồm hai mặt với 2 niên đại khác nhau. Mặt thứ nhất có ghi niên đại "Kiến Hưng nhị niên cửu nguyệt", tạm cho rằng là niên hiệu của Tấn Mẫn Đế, khoảng tháng 9 năm 314. Mặt thứ hai có ghi niên đại "Duy Tống Nguyên Gia chấp thất niên", tức năm 450".
Khi phóng viên có mặt tại nghè Thanh Hoài, xã Thanh Khương, tấm bia vẫn nằm nguyên vị trí cũ. Do tấm bia bị vỡ làm đôi nên nửa dưới được gắn với đế, nửa trên được xếp dưới đất. Cụ Nguyễn Huy Chiện, Từ đền Thanh Hoài cho biết, địa phương đang có phương án thuê thợ đá về gắn lại cho hoàn chỉnh.
Theo quan sát của chúng tôi, kết cấu của bia gồm 2 phần là thân bia và đế bia. Thân bia được tạo tác bởi một phiến đá lớn, phần đầu bia được đục vát hai đầu thành hình tam giác tạo thành trán. Đế bia là một khối đá hình hộp chữ nhật đồ sộ. Chiều cao của tấm bia là 2m, rộng 1m và độ dày là 15cm. Phần đế bia có chiều dài 1,36m, rộng 1m và cao 0,5m.
Theo cụ Nguyễn Huy Chiện, trước đây bia vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có một vết nứt chéo ngang thân bia. Năm 1967, máy bay đế quốc Mỹ bị rơi trúng địa phận thôn Thanh Hoài cách bia khoảng 300m. Khi bộ đội công binh cho nổ các quả bom còn sót lại đã gây ra chấn động khiến tấm bia bị vỡ làm đôi.
Cũng theo cụ Chiện, từ khi bia bị vỡ thì dân làng xếp vào chái nhà của nghè. Củi khô xếp đống nên một thời gian dài tấm bia quý giá rơi vào quên lãng. Khi ngành văn hoá tỉnh Bắc Ninh đi khảo sát xếp hạng di tích, các chuyên gia lược dịch mới biết đây là tấm bia cổ kính.
Ông Lê Viết Nga khẳng định: "Với hai giả thiết về niên đại của bia thì niên đại tuyệt đối của tấm bia vẫn còn là một ẩn số. Nhưng dù niên đại của nó có rơi và thời điểm nào (năm 305 hoặc 315) thì với những căn cứ hiện có, hoàn toàn có thể khẳng định đây là tấm bia cổ nhất Việt Nam được phát hiện. Văn bia có niên đại vào đầu thế kỷ thứ IV, tức thời Đông Ngô bên Trung Quốc".
Tấm bia được xác định niên đại năm 314.
Tấm bia viết gì?
Theo thống kê của Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh, số chữ còn lại ở cả 2 mặt tấm bia cổ chỉ khoảng gần 300 chữ, mỗi mặt được viết theo lối chữ khác nhau. Mặt thứ nhất có dòng niên đại Kiến Hưng nhị niên, hiện còn khoảng 120 chữ viết theo phong cách Lệ thư. Mặt thứ hai có niên đại Tống Nguyên Gia chấp thất niên còn khoảng 150 chữ, viết theo phong cách Khải thư.
Nội dung văn bia ghi chép những gì hiện chưa được công bố. Nhưng ông Lê Viết Nga bật mí về nhân vật được ghi trong tấm bia là Đào Hoàng. Tuy nhiên, mỗi mặt lại có một nội dung khác nhau: Mặt thứ nhất ghi chép về lai lịch, công trạng của ông, mặt thứ hai ghi chép về việc trùng tu nơi thờ tự, tức nghè Thanh Hoài.
Niên đại của mặt thứ nhất được ghi ở dòng cuối cùng của mặt bia: "Kiến Hưng nhị niên cửu nguyệt nhâm". Niên đại của mặt bia thứ hai ghi ở dòng thứ 5 (tính từ phải sang trái): "Duy Tống Nguyên Gia chấp thất niên, Thái tuế Canh Dần, thập nhị nguyệt (Bính Thìn)".
Ông Nga cho hay, về niên đại Tống Nguyên Gia của mặt bia thứ hai ta có thể dễ dàng xác định đây là niên hiệu của Lưu Nghĩa Long (424 - 453). Về niên hiệu Kiến Hưng được khắc ở mặt bia thứ nhất, từ sau năm Đào Hoàng mất (năm 300). Giả thuyết thứ hai, thì đây là niên hiệu của Tấn Mẫn Đế (313 - 317).
Một số hàng chữ trên tấm bia.
Đào Hoàng là ai?
Theo nội dung tấm bia cổ cũng như khi các nhà khảo cổ đối ứng với lịch sử Trung Quốc thì Đào Hoàng không rõ năm sinh nhưng mất năm 300. Tên tự Thế Anh, là đại tướng dưới triều Đông Ngô và Tây Tấn.
Giám đốc bảo tàng Bắc Ninh, ông Lê Viết Nga cho biết, "Tấn thư" không ghi thân thế và tổ tiên của Đào Hoàng, chỉ biết rằng ông sinh ra và lớn lên ở vùng Mạt Lăng, quận Đơn Dương thuộc nước Ngô, một trong ba quốc gia thời Tam Quốc.
Thời bấy giờ, miền đất Giao Châu thuộc vùng quản lí của Đông Ngô thường phát sinh bạo loạn. Năm 269, thấy đã mất hai châu, Tôn Hạo hoảng sợ, vội sai Ngu Dĩ làm Giám quân, Tiết Vũ làm Uy Nam tướng quân, đại đô đốc và Đào Hoàng được phong chức Thương Ngô thái thú, đem quân tiến đánh nhằm chiếm lại Giao châu.
Trận đầu ra quân, Đào Hoàng bại trận ở sông Phần phải lui về giữ Hợp Phố, hai tướng tử trận. Đào Hoàng dẫn hơn 100 quân vào tập kích Đổng Nguyên. Bên quân Tấn. Đào Hoàng nhân tình hình đó lại công hãm và chiếm được Giao Châu. Đông Ngô cho ông làm Thứ sử Giao châu.
Địa thế ba quận Vũ Bình, Cửu Đức, Tân Xương hiểm trở, lại thường có giặc cướp. Tôn Hạo sai Hoàng đem quân đánh, mở mang ba quận vào đất Ngô. Sau Tôn Hạo phong ông làm đô đốc Vũ Xương, dời đến Hợp Phố và cho viên thái thú Hợp Phố Tu Nguyên lên thay, nhưng có nghìn người Giao châu xin cho Hoàng ở lại, vua Ngô bèn cho ông ở lại Giao Châu.
Nghè Thanh Hoài.
Năm 280, Tấn Vũ Đế đem quân diệt Ngô, hạ Kiến Nghiệp, bắt sống Tôn Hạo. Tôn Hạo đích thân viết một bức thư, sai Hoàng Tức đến khuyên Đào Hoàng quy thuận nhà Tấn. Đào Hoàng khóc suốt mấy ngày, sau cùng mới chịu, sai sứ đưa ấn bao về Lạc Dương. Tấn Vũ Đế cho ông giữ nguyên chức cũ, lại ban tước Uyển Lăng hầu, Quan quân tướng quân.
Theo sử sách, Đào Hoàng ở Giao Châu hơn 30 năm, ân, oai tỏ rõ, được dân địa phương quý mến. Năm 300, ông qua đời, nhân dân kêu khóc như mất cha mất mẹ. Bởi khi còn sống, Đào Hoàng giúp dân khai khẩn, lập các làng ấp, an cư cho dân nên được yêu quý. Khi chết, dân lập đền thờ Đào Hoàng tại xã Thanh Khương (Thuận Thành) tưởng nhớ công ơn.