Đình Sừng xã Lăng Thành là ngôi đình lớn tồn tại trên 500 năm. Là một trong những kiến trúc cổ có quy mô nghệ thuật trang trí, điêu khắc, chạm trổ vào loại bậc nhất ở Nghệ An hiện đang được nhân dân gìn giữ.
Đình Sừng ngày nay
|
Đình Sừng - Tên gọi gắn liền với tên đất, tên làng. Làng Quỳ Lăng xưa có tên gọi Kẻ Sừng, là một ngôi làng cổ ẩn mình trong thế độc đáo, có nhiều lợi thế trong chiến tranh và nhiều tiềm năng phát triển kinh tế... Vì vậy, Kẻ Sừng xưa đã sớm trở thành một trong những trung tâm kinh tế - văn hóa, chính trị quan trọng của Châu Diễn.
Khi nhà Đường lấy huyện Hàm Hoan trong châu để đặt ra Diễn Châu làm thành một trong 12 châu của An Nam đô hộ Phủ năm 679, cho đến hết triều đại nhà Đinh 979, liên tục trong 3 thế kỷ, lị sở của Diễn Châu luôn đóng ở Kẻ Sừng.
Xuất phát từ nhu cầu xã hội lúc bấy giờ kết hợp với sự tác động với nền văn hóa của một vùng đất cổ. Tháng 11/1583 nhân dân làng Quỳ Lăng đã hợp lực xây dựng một ngôi đình để làm nơi hội họp và sinh hoạt văn hóa. Nguyên xưa đình được làm bằng tranh tre, nứa lá nằm giữa một quần cư trù mật, quanh đình có làng mạc, cây đa, bến nước, có con sông Sừng uốn khúc như dải lụa mềm chở nặng phù sa tắm mắt cho ruộng đồng. Cùng với nhiều kiến trúc cổ đặc sắc như cầu đá, cổng làng... đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo, tinh túy của ngôi đình cổ.
Năm 1797, làng dựng thêm tòa hậu cung để làm nơi thờ phụng thành hoàng của làng. Trong quá trình tồn tại và phát triển, đình được tu sửa vào các năm: 1637, 1677, 1787, 1913 và đến năm 1929 đình được tu lý xây dựng lại to đẹp như hiện nay. Việc tu lý, xây dựng lại đình được các văn bia ở đây ghi rõ: Vào năm Đinh Mão 1927, nhân dân làng Quỳ Lăng bắt tay vào việc chuẩn bị gỗ, tiền bạc, công sức.
Về gỗ được chia đều cho 11 giáp trong làng, chọn và khai thác loại gỗ lim tốt nhất và to nhất trong các khu rừng của làng Quỳ Lăng; Về tiền: Làng đặt cho thợ 5 ngàn quan, khoản tiền này lấy từ nguồn thu bán chức sắc như: Hiệu xạ, thần tổ của Làng và tiền thu bổ theo đinh điền; Về ngói: làng tự lập ra tổ thợ mở lò dập theo một khuôn riêng và được nung nấu theo đúng tiêu chuẩn.
Sau 3 năm chuẩn bị, đến năm 1929 việc tôn tạo, xây dựng lại đình được khởi công dưới sự chỉ đạo của đốc Hoàng Doãn Cù - quê ở Diễn Châu, đến nay nhân dân địa phương còn lưu truyền bài vè phản ánh không khí lao động sôi nổi của dân làng thuở đó: “Dưới trên ai nấy thuận tình/Trống đánh dập dình, reo hát cả ngày đêm/Ba năm kéo gỗ một miền/Đắp nền thuê thợ tức thì làm ngay”.
Ông Thái Khắc Lưu - một bậc cao niên ở xã Lăng Thành kể lại việc dựng đình ngày ấy như một câu chuyện huyền thoại: Đình do 2 hiệp thợ thi công, nửa đình phía Đông do thợ Diễn Châu đảm nhận, nửa phía Tây được giao cho hiệp thợ Yên Thành. Sau khi thống nhất khuôn mẫu và kích thước, hai bên tiến hành làm trong một thời gian theo quy định, nhưng phải giữ kín bí mật, không được trao đổi với nhau.
Sau khi các vầy đình sàm đục xong, làng đã quyết định chọn ngày dựng đình, mỗi bên huy động khoảng 300 người, dùng dây tre bện lại với nhau để kéo, khi có hiệu lệnh cả hai bên đều kéo vầy đình lên cùng một lúc. Mặc dù làm bằng phương pháp thủ công, nhưng khi dựng lên hai phần đình đều khít với nhau và các cột đình đều đứng ngay giữa hòn đá tảng. Điều đó càng khẳng định tài nghệ của cha ông cha ta ngày trước.
Đến đầu năm 1930 việc tôn tạo, xây dựng lại đình được hoàn thành. Đình có kiến trúc thời Nguyễn quy mô đồ sộ, dài 24,7m; rộng 11,2m. Khung sườn nhà được làm bằng gỗ lim, kích thước lớn. Tòa đình có 6 vì được liên kết với nhau bởi đường thượng lương và có hệ thống giằng cột, xà dọc, xà ngang đóng khít tạo thành 5 gian rộng và 2 gian phụ ở đầu hồi văn. Mỗi vì có bốn cột, hai cột cái cao 5,63m, đường kính 0,42m; hai cột quân cao 4,33m, đường kính 0,4m. Toàn bộ tòa đình có 24 cột, tất cả đều có hình trụ tròn kê trên một chân tảng bằng đá thanh có kích cỡ, kiểu dáng, màu sắc giống nhau. Các xà hạ, kẻ ở đình có kích thước lớn, được chạm trổ công phu.
Về nghệ thuật trang trí, dường như trên tất cả các bộ phận kiến trúc của đình như bờ nóc, con xô, xà, hạ, kẻ...đều được các nghệ nhân trang trí một cách công phu, thể hiện được tài nghệ điêu khắc, chạm trổ cao. Trên bờ nóc, con xô và hai mảng tường bít đốc, bằng các chất liệu sẵn có tại địa phương như vôi vữa và mật mía được các nghệ nhân trộn lẫn để đắp các hình tượng Rồng chầu, Phượng múa bằng những mảng phù điêu sinh động.
Trang trí trên kiến trúc gỗ, đề tài được thể hiện ở đây cũng xoay quanh những mô típ quen thuộc như: “Tứ Linh”, “Tứ Quý” nhưng bằng sự bố trí các mảng một cách hài hòa cân đối, toát lên vẻ sinh động thu hút người xem.
Điều đáng chú ý là 4 bức chạm trên 4 bức cốn mê ở 4 góc của tòa bái đình với cách bố trí đăng đối, cân xứng với nghệ thuật chạm lỗng tỷ mỷ, công phu mang tính điệu nghệ cao với 4 con vật linh thiêng: Long, Ly, Quy, Phượng được thể hiện vừa mảnh mai, uyển chuyển vừa mang tính nhân hóa cao.
Đặc biệt trên tất cả các kẻ của bái đình đều được chạm khắc hai mặt với đề tài xen kẻ như: “Phượng hàm thư”, “Cá chép hóa rồng, “Tùng lộc”, “Rồng chầu nguyệt”... và hình tượng “Long vân” cũng là đề tài được thể hiện nhiều trên các xà, đầu dư, đuôi bẩy của đình với tài nghệ điêu khắc đã được cảm giác như đang thấy rồng ẩn hiện trong mây.
Có một điều khá thú vị là đình do hai tốp thợ làm theo một mô típ đã định sẵn, nhiều mảng chạm trổ tuy cùng một đề tài, nhưng thần thái, cách thể hiện lại hoàn toàn khác nhau. Nhưng tất cả đều toát lên tính nhân văn sâu sắc, thể hiện truyền thống của một dân tộc, đó là: Thanh cao, tinh khiết, thủy chung, thuần hậu, kiên cường và tâm hồn hướng thiện, hướng thượng, hiếu mỹ, lạc quan, có một cuộc sống thanh bình.
Trải qua bao biến cố thăng trầm lịch sử, dù cho chiến tranh giặc dã, dù cho cơ chế đổi thay và sự khắc nghiệt của thiên nhiên, nhưng đình vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ gắn liền với những chứng tích lịch sử của đất và người Quỳ Lăng.
Trong những năm 1930-1931 đình Sừng là địa điểm hội họp bí mật của chi bộ Quỳ Lăng - một trong những chi bộ đầu tiên ở huyện Yên Thành. Trong khoảng thời gian 1932-1933, thực dân Pháp đã lấy đình Sừng làm nơi đóng đồn bang tá. Tại đây, bọn chúng đã giam cầm, bắt bớ tra tấn trên 100 cán bộ đảng viên.
Ngày 12/8/1945, tại ngôi đình cổ quần chúng nhân dân Quỳ Lăng đã tập trung tổ chức cướp chính quyền từ tay phong kiến, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc vận động lớn như: Tuần lễ vàng, tuần lễ vũ khí, công phiếu kháng chiến, công phiếu Quốc Gia, là trường học, nơi chứa thóc cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ có thời gian dài, đình là nơi đóng xưởng dệt của Quân khu 4. Ngày nay, đình là trung tâm diễn ra nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa địa phương như: tế thần, rước kiệu, hát ả đào, ca trù, hát chèo, vật cù lộ, là nơi tổ chức hội họp của của các tổ chức đoàn thể...
Năm 2004, Đình Sừng được công nhận di tích văn hóa lịch sử cấp Quốc gia. Năm 2010 được sự hỗ trợ của Nhà nước, chính quyền địa phương đã đầu tư trùng tu nâng cấp một số hạng mục, nhằm gìn giữ những tư liệu quý, giúp cho các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc của di sản văn hóa cổ và cũng là nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau.
Trở về với ngôi đình cổ đứng trước con sông quê tự làm đẹp cho mình, cùng với làng quê này hiện về bao làng quê khác của đất Việt thân thương, nép mình sau lũy tre xanh là xóm thôn trù phú, thấp thoáng có mái đình cổ kính rêu phong, đây không những là nơi lưu giữ giá trị lịch sử văn hóa - nghệ thuật mà còn là ngôi nhà chung của dân làng, nơi neo giữ tình cảm của những người đi xa, là sự gắn kết trách nhiệm với những người ở lại bám trụ xây dựng quê hương, để cho mạch nguồn văn hóa dân tộc chảy đến mai sau.
(Dân Trí)