VOV.VN xin giới thiệu với độc giả bài viết của tác giả Diego Zampini trên trang acepilots.com nói về không quân nhân dân Việt Nam và một số phi công hạng Ace (những phi công đã bắn hạ từ 5 máy bay của đối phương trở lên) của Việt Nam trong cuộc đối đầu với các lực lượng không quân hùng hậu của Mỹ thời kỳ chiến tranh Việt Nam:
Ngày 23/8/1967, Mỹ tiến hành ném bom thủ đô Hà Nội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Phía Mỹ tung vào trận một đội hình hùng hậu gồm tới 40 máy bay, trong đó có oanh tạc cơ Thunderchief, F-105F chuyên “xử lý” các radar tên lửa SAM, và máy bay Phantom hộ tống.
Tiêm kích cơ MiG-21 của trung đoàn 921 chuẩn bị vào trận nghênh chiến với máy bay Mỹ. Ảnh tư liệu của Việt Nam.
Tổ lái của một chiếc F-4D, gồm Charles R. Tyler (phi công) và Ronald M. Sittner (phụ trách hỏa lực), tỏ ra chủ quan. Họ không ngờ sẽ có máy bay MiG chặn đánh...
Tuy nhiên Tyler được một phi công F-105D (Elmo Baker) thông báo qua vô tuyến điện rằng anh ta đã bị một chiếc MiG-21 đánh trúng và sắp bung dù. Trong lúc Tyler quan sát xung quanh xem có đối phương nào không thì một tiếng nổ lớn làm máy bay của anh ta rung mạnh. Tyler sau đó mất điều khiển đối với máy bay và buộc phải nhảy dù. Lơ lửng trên không cùng với dù, Tyler thấy chiếc F-4D của mình bốc cháy như đuốc và rơi xuống rừng rậm. Tyler không thấy đồng đội Sittner nhảy dù – anh ta đã chết tức thì do trúng tên lửa. Hai phi công Tyler và Baker đã bị quân đội Việt Nam bắt giữ ngay khi họ chạm đất.
Cả hai đã bị bắn hạ bằng tên lửa R-3S Atoll phóng đi từ hai chiếc MiG-21PF của trung đoàn tiêm kích 921 thuộc Quân chủng Không quân Nhân dân Việt Nam, do hai phi công là Nguyễn Nhật Chiêu và Nguyễn Văn Cốc điều khiển.
Thêm hai chiếc F-4D khác bị hạ vào hôm đó, mà Việt Nam không mất một chiếc MiG nào. Đây là một trong những ngày thành công nhất của không quân Việt Nam.
Trong Chiến tranh Việt Nam, chỉ có hai phi công Mỹ đạt hạng Ace là Randy "Duke" Cunningham (thuộc hải quân Mỹ) và Steve Ritchie (thuộc không quân Mỹ) trong khi đó phía Việt Nam có tới 16 phi công đạt danh hiệu này.
Nguyễn Văn Cốc là phi công đứng đầu trong các phi công Ace của Việt Nam. Anh tiêu diệt được 9 máy bay của đối phương, trong đó có 2 chiếc phi cơ không người lái (UAV). Trong 7 máy bay còn lại, phía Mỹ xác nhận 6 chiếc.
Thậm chí nếu không tính 2 chiếc UAV thì với chiến công hạ 7 máy bay có người lái, Nguyễn Văn Cốc vẫn xứng đáng là phi công hạng Ace số 1 của toàn cuộc Chiến tranh Việt Nam bởi không có phi công Mỹ nào hạ được quá 5 máy bay của đối phương.
Vì sao Việt Nam nhiều phi công hạng Ace hơn hẳn Mỹ?
Một nguyên nhân là số lượng đôi bên. Năm 1965 phía Không quân Nhân dân Việt Nam chỉ có 36 chiếc MiG-17 và một số lượng phi công tương tự. Con số này tăng lên thành 180 chiếc MiG và 72 phi công vào năm 1968.
72 phi công quả cảm này phải đương đầu với khoảng 200 chiếc F-4, khoảng 140 chiếc Thunderchief, và ước chừng 100 chiếc F-8/A-4/F-4 của hải quân Mỹ xuất kích từ hàng không mẫu hạm cùng rất nhiều máy bay hỗ trợ (gây nhiễu, cứu hộ…)
Trong bối cảnh đó các phi công Việt Nam phải chiến đấu vất vả và bận rộn hơn rất nhiều.... Trong khi đó các phi công Mỹ được luân chuyển về nước để huấn luyện, bay thử hoặc tham gia công tác chỉ huy. Có trường hợp được điều trở lại chiến trường Việt Nam nhưng rất hiếm.
Còn chiến thuật thì sao?
Các phi công Việt Nam nhận được sự dẫn đường tuyệt vời của kiểm soát mặt đất, giúp họ chiếm lĩnh được vị trí phục kích tối ưu. Tiêm kích MiG thực hiện tấn công nhanh và hiệu quả từ vài hướng. Thường thì các máy bay MiG-17 sẽ tấn công trực diện, còn MiG-21 sẽ tấn công vu hồi. Sau khi bắn hạ một số máy bay Mỹ và buộc một số chiếc F-105 phải ném bom sớm, máy bay MiG sẽ không nấn ná lâu để bị trả đũa – chúng sẽ lập tức thoát ly nhanh chóng. Chiến thuật “du kích trên không” này tỏ ra rất hiệu quả.
Đã vậy phía Mỹ lại phạm một số sai lầm tạo điều kiện thuận lợi cho phía Việt Nam. Chẳng hạn cuối năm 1966 đội hình F-105 của Mỹ thường bay vào ban ngày vào giờ cố định, theo hành trình cố định và sử dụng những tín hiệu liên lạc lặp đi lặp lại. Nhờ đó phía Việt Nam phát hiện được đối phương một cách dễ dàng và tung đòn quyết liệt.
Vào tháng 12/1966, phi công MiG-21 của trung đoàn 921 chặn đánh các chiếc phi cơ Thunderchief trước khi gặp máy bay hộ tống F-4. Kết quả, phía Việt Nam hạ được tới 14 chiếc F-105 mà không phải chịu tổn thất nào.
Thế còn công tác huấn luyện?
Vào giữa thập niên 1960, các phi công Mỹ chủ yếu được huấn luyện kỹ năng sử dụng tên lửa nhằm giành thắng lợi trên không. Thế nhưng họ quên mất một điều là một phi công có tài điều khiển phi cơ quan trọng không kém vũ khí mà anh sử dụng.
Không quân Việt Nam ý thức được điều đó và huấn luyện phi công của mình tận dụng lợi thế linh hoạt của các máy bay MiG-17, MiG-19 và MiG-21. Họ chủ trương cận chiến để hạn chế các lợi thế của các máy bay Phantom và Thunderchief to hơn.
Các phi công Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu của Việt Nam.
Đến năm 1972 phía Mỹ đã phải điều chỉnh nội dung huấn luyện không chiến cho phi công Mỹ và trang bị thêm pháo 20mm cho F-4E.
Cuối cùng bản thân việc phía Mỹ có quá nhiều máy bay tham chiến đã tạo điều kiện cho các phi công Việt Nam có nhiều mục tiêu để tấn công.
Các phi công hạng Ace của Việt Nam lái tiêm kích MiG-21 và MiG-17, không có ai trong số họ lập chiến công bằng MiG-19.
Nguyễn Văn Bảy
Khi trung đoàn tiêm kích 923 được thành lập vào ngày 7/9/1965, anh Nguyễn Văn Bảy là một trong các học viên được lựa chọn để lái MiG-17. Khóa huấn luyện kết thúc vào tháng 1/1966. Thiếu úy trẻ Nguyễn Văn Bảy nhanh chóng được cất cánh đối đầu với máy bay Mỹ.
Ngày 21/6/1966, bốn chiếc MiG-17 của trung đoàn 923 giao chiến với một chiếc RF-8A và các chiếc F-8 hộ tống... Phi công Nguyễn Văn Bảy đã bình tĩnh bắn hạ chiếc F-8E của phi công Cole Black buộc người này phải nhảy dù và bị bắt làm tù binh. Phi công Nguyễn Văn Bảy làm xao nhãng đội bay hộ tống và điều này tạo điều kiện cho phi công Phan Thanh Trung lái chiếc MiG dẫn đầu biên đội bắn hạ chiếc RF-8A. Phi công Leonard Eastman bị bắt làm tù binh.
Một tuần sau, vào ngày 29/6 phi công Nguyễn Văn Bảy và 3 phi công MiG-17 khác giao chiến với các chiếc F-105D của Mỹ tiến đánh các kho nhiên liệu ở Hà Nội. Nguyễn Văn Bảy đã bắn hạ một chiếc Thunderchief được lái bởi phi công Thiếu tá hạng ace của Mỹ từng hạ 6 chiếc MiG trong Chiến tranh Triều Tiên.
Chiến công lớn nhất của phi công Nguyễn Văn Bảy là vào ngày 24/4/1967. Là chỉ huy biên đội, Nguyễn Văn Bảy
Bảy cất cánh từ sân bay Kiến An và dẫn dắt máy bay MiG-17 khác nghênh chiến với máy bay Mỹ đang nhằm vào cảng Hải Phòng. Nguyễn Văn Bảy bám sát đuôi một chiếc F-8C rồi nhả một loạn đạn 37mm khiến máy bay đối phương vỡ tan. Chiếc F-8C bốc cháy rồi rơi xuống đất, còn viên phi công Tucker tuy kịp nhảy dù thoát thân nhưng đã bị bắt sống sau đó.
Các chiếc F-4B lập tức lâm chiến và bắn vài trái tên lửa Sidewinders về phía Nguyễn Văn Bảy nhưng máy bay số 2 trong biên đội đã cảnh báo cho anh. Nguyễn Văn Bảy thoát ly gấp và tránh được tất cả các quả tên lửa.
Sau đó Nguyễn Văn Bảy lao chiếc MiG-17 về phía một chiếc Phantom và dùng pháo hạ gục chiếc phi cơ này.
Hôm sau, ngày 25/4, biên đội MiG-17 của Nguyễn Văn Bảy lại lập chiến công, hạ thêm 2 chiếc A-4 mà không chịu tổn thất nào. Hải quân Mỹ xác nhận chiến công này: Họ mất chiếc A-4C số hiệu 147799 (bị bắn hạ bởi pháo của máy bay phi công Nguyễn Văn Bảy) và chiếc A-4C số hiệu 151102.
Phi công Nguyễn Văn Bảy đã được tuyên dương Anh hùng Quân đội Nhân dân Việt Nam nhờ kỹ năng và lòng can đảm trong chiến đấu cũng như năng lực chỉ huy biên đội.
Nguyễn Đức Soát
Một kỳ tích của Không quân Nhân dân Việt Nam là các phi công giỏi đã truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu cho các phi công mới. Một trường hợp điển hình là phi công Nguyễn Đức Soát.
Học viên phi công MiG-21 này được điều về trung đoàn 921. Các giảng viên của anh là các phi công dày dạn và nổi tiếng thời đó: Phạm Thanh Ngân (bắn hạ 8 máy bay đối phương) và phi công Ace số 1 – Nguyễn Văn Cốc (bắn hạ được 9 máy bay đối phương). Phi công Nguyễn Đức Soát đã thu được nhiều kinh nghiệm quý báu từ bậc đàn anh.
Được điều về trung đoàn tiêm kích 927 mới thành lập, phi công Nguyễn Đức Soát nhanh chóng thể hiện tài năng. Anh lập chiến công đầu tiên khi bắn hạ chiếc A-7B Corsair II (của hải quân Mỹ) bằng pháo 30mm. Phi công Mỹ Charles Barnett tử trận.
Ngày 24/6/1972 hai chiếc MiG-21 do Nguyen Duc Nhu và Ha Vinh Thanh lái cất cánh từ sân bay Nội Bài vào lúc 15h12 để chặn đánh một số chiếc Phantom tấn công một nhà máy ở tỉnh Thái Nguyên. Máy bay Mỹ hộ tống nhanh chóng xung trận. Nhưng 2 chiếc MiG đó chỉ là mồi nhử. Bất thình lình hai chiếc MiG-21PFM của trung đoàn 927 xuất hiện, với máy bay số 1 là của Nguyễn Đức Soát và máy bay yểm trợ là của phi công Ngo Duc Thu.
Phi công Nguyễn Đức Soát phóng một quả tên lửa tầm nhiệt R-3S Atoll hạ gục chiếc F-4E của David Grant và William Beekman – hai phi công này sau đó bị bắt làm tù binh. Phi công số 2 (Thu) cũng bắn rơi một chiếc Phantom khác.
Ba ngày sau các anh Soát và Thu xuất kích từ Nội Bài vào lúc 11h53 và lao về phía 4 chiếc F-4. Tuy nhiên hai người phát hiện có thêm 8 chiếc Phantom đang lao tới nên họ không liều lĩnh đẩy mình vào thế “kẹp bánh mì” giữa các máy bay tiêm kích Mỹ.
Hai phi công Việt Nam quyết định quay lại, leo lên độ cao 5.000m và chờ đợi. Sự kiên nhẫn của họ được đền đáp. Đối phương bị bất ngờ, các anh Soát và Thu mỗi người hạ một chiếc Phantom đều bằng tên lửa R-3./.
Theo Trung Hiếu/VOV.VN/Zampini/acepilots.com
http://dantri.com.vn/the-gioi/phuong-tay-viet-ve-chien-thuat-cua-cac-phi-cong-ace-cua-viet-nam-20160419112157644.htm