Người tuổi Thân thông minh hoạt bát, đa tài.  Họ rất năng động, phản ứng nhanh, biết tự tạo cơ hội cho mình, có chí  tiến thủ, ý chí kiên định, niềm tin vững vàng, ý thức cạnh tranh mạnh  mẽ. Người tuổi Thân rất khôn khéo và là người vui vẻ từ trong tâm. Họ là  tuýp người có khiếu hài hước, dễ thích nghi với môi trường xung quanh.  Người tuổi Thân ưa tranh đấu nhưng họ lại giỏi che giấu suy nghĩ cùng kế  hoạch hành động của mình. Ngoài ra, người sinh năm Thân có nhiều tài lẻ  thiên bẩm, họ là những nhà hoạt động xã hội xuất sắc.
 Với nam nhân  tuổi Thân, thất bại không làm họ nhụt chí mà chỉ quyết tâm làm tốt hơn  và kết quả sẽ làm cho mọi người phải thán phục. Họ không hề có tâm lý  thoả mãn với tài năng thiên bẩm của mình, họ chỉ cảm thấy đầy đủ khi tài  năng của họ được phát huy. Việc gì họ cũng muốn thử làm do họ có thể  làm việc cẩn thận, kiên nhẫn, cần cù, vì thế họ không hề lãng phí thời  gian.
 Với nữ nhân  tuổi Thân, họ  rất nhiệt tình và đầy hấp dẫn. Phụ nữ tuổi Thân là những  người thông minh, biết giữ hòa khí với những người cùng cộng tác. Họ có  sinh lực dồi dào, ý chí chiến đấu kiên cường. Ngoại ra, nữ nhân tuổi  Thân rất nhiệt tình nhưng luôn biết giữ bí mật, rất cứng rắn nhưng vô  cùng mềm mỏng. Đồng thời, họ cũng là người rất nhạy cảm và đầy lòng trắc  ẩn .
Xuân Bính Thân đang tới, hãy cùng VOV điểm qua một vài nhân vật tuổi Thân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam
1.     Nguyễn Trãi (1380  – 19 tháng 9 năm 1442), hiệu là Ức Trai, quê gốc ở thôn Chi Ngại,  phường Cộng Hoà, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị  Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội.
    
        
            |  | 
        
            | Nguyễn Trãi | 
    
 
Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi  từng làm quan dưới triều Hồ. Khi nhà Minh xâm lược, cha ông là Nguyễn  Phi Khanh đầu hàng từ trước đó viết thư khuyên ông ra hàng, ông làm  theo. Sau khi Đại Việt bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi  tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách  Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày  tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh .
 
 
 
Nguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn, có đóng  góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm  trong danh sách 14 anh hùng dân tộc Việt Nam. Do luôn luôn "lo trước  điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ", Nguyễn Trãi lúc  nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Tác phẩm “ Bình  Ngô đại cáo “ của ông là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc. 
2.     Phan Châu Trinh (còn được gọi  Phan Chu Trinh; 1872–1926), hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán. Ông là  nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
    
        
            |  | 
        
            | Phan Châu Trinh 
 | 
    
 
Năm 28 tuổi Phan Châu Trinh đỗ Cử nhân  (1900), 29 tuổi đỗ Phó bảng (1901), cùng khoa với Phó bảng Nguyễn Sinh  Sắc (thân sinh của Nguyễn Ái Quốc). Năm 1902, Phan Châu Trinh được triều  đình nhà Nguyễn bổ nhiệm làm Thừa Biện (một chức quan nhỏ) Bộ Lễ và đến  năm 1904 cụ xin từ quan.
Phan Châu Trinh dành nhiều thời gian cho  việc sáng tác văn thơ và kết giao với các sĩ phu yêu nước như Phan Bội  Châu, Ngô Đức Kế… đọc “tân thư”, tiếp thu tư tưởng cách mạng tư sản  phương Tây, tìm hiểu cuộc duy tân ở Nhật Bản. Năm 1905, Phan Châu Trinh  cùng với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp bắt đầu cuộc vận động duy tân ở  Quảng Nam với 3 mục tiêu: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Điều  đáng quý ở Phan Châu Trinh là tinh thần yêu nước nồng nhiệt,  ý chí đấu  tranh bất khuất trước cường quyền và gian khổ, quyết tâm đổi mới đất  nước...
3.     Phạm Hồng Thái
Phạm Hồng Thái từng được nhà thơ Tố Hữu làm thơ rằng:
"Sống chết được như anh.
Thù giặc thương nước mình.
 Sống làm quả bom nổ.
Chết hóa dòng sông xanh “
 
 
    
        
            |  | 
        
            | Phạm Hồng Thái 
 | 
    
 
 
Phạm Hồng Thái (1896 - 1924) là một nhà hoạt  động trong Phong trào Đông Du và là người đặt bom ám sát toàn quyền  Đông Dương Martial Merlin vào năm 1924. Sau khi viết bảng cáo trạng tố  cáo tội ác của thực dân Pháp đến nhân dân toàn thế giới, Phạm Hồng Thái  giả dạng ký giả vào Khách sạn Victoria tại tô giới Sa Diện ở Quảng Châu  để ám sát toàn quyền Đông Dương Martial Henri Merlin. Tuy nhiên vụ mưu  sát không thành, Merlin chỉ bị thương nhẹ và thoát chết.  Phạm Hồng Thái  thoát được khỏi khách sạn nhưng bị truy nã nên phải gieo mình xuống  dòng Châu Giang tự tử khi chỉ mới 28 tuổi. Sự kiện này được gọi tên là  "Tiếng bom Sa Diện", đã làm chấn động thời sự trong vùng. Thi hài Phạm  Hồng Thái được chính phủ Tôn Trung Sơn trân trọng chôn cất ở Đài liệt sĩ  Hoàng Hoa Cương với 72 liệt sĩ Trung Quốc trong cuộc Cách mạng Tân Hợi  1911.
4.     Hồ Tùng Mậu (1896-1951) là một  nhà hoạt động cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông từng là Đảng viên  của cả Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam, thành viên  Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Thanh tra Ban  Thanh tra Chính phủ.
    
        
            |  | 
        
            | Hồ Tùng Mậu 
 | 
    
 
Khi Lãnh Tụ  Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát  Hương Cảng bắt tháng 6 năm 1931, ông đã cùng Trương Vân Lĩnh liên hệ với  Hội Quốc tế Cứu tế Đỏ nhờ can thiệp và vận động luật sư Loseby bào chữa  cho Lãnh Tụ Nguyễn Ái Quốc. Chính vì thế, ông bị nhà cầm quyền Hương  Cảng bắt giam, nhưng vì không đủ chứng cứ buộc tội nên họ trục xuất ông  khỏi Hương Cảng.
     Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được phân  công giữ các chức vụ: Phụ trách trường Quân chính Nhượng Bạn (Trung Bộ),  Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Liên khu IV, Ủy viên thường vụ Liên khu ủy.  Năm 1947, ông làm Trưởng Ban Thanh tra Chính phủ, sau đó còn làm Hội  trưởng Hội Việt Hoa hữu nghị. Tại Đại hội Đảng lần thứ II vào tháng 2  năm 1951, ông được bầu là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương  Đảng.
5.     Ngô Gia Tự là người học trò  xuất sắc của Chủ tịch  Hồ Chí Minh, người chiến sĩ Cộng sản lỗi lạc của  Đảng, người con ưu tú của quê hương Bắc Ninh. Ngô Gia Tự một tấm gương,  một hình mẫu về tài năng, khí phách của một người cách mạng yêu nước,  yêu dân tộc, kiên cường, bất khuất, một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc của  cách mạng Việt Nam. Ngô Gia Tự là người có công đầu trong việc sáng lập  và thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên- Tiền thân của Đảng Cộng sản  Việt Nam.
Thời trẻ, ông học trường Bưởi (nay là trường  THPT Chu Văn An – Hà Nội). Ông say mê đọc sách, nổi tiếng học rộng tài  cao, biết nuôi chí lớn, lo cho nước và thương dân. Ngô Gia Tự đã sớm hoà  mình vào các hoạt động của học sinh, sinh viên, hăng hái tham gia phong  trào đấu tranh đòi thực dân Pháp thả nhà yêu nước Phan Bội Châu; đấu  tranh đòi truy điệu cụ Phan Chu Trinh . Tháng 3 năm 1929, ông giúp thành  lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam  được thành lập, ông được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời của Đảng bộ Nam  Kỳ. Dưới sự lãnh đạo của Bí thư Xứ ủy Ngô Gia Tự, Đảng bộ đã chọn nhà  máy Ba Son, đồn điền Phú Riềng, xã Vĩnh Kim (Mỹ Tho) làm cơ sở phát  triển cách mạng
6.     Nguyễn Đức Cảnh (2 tháng 2 năm  1908 – 31 tháng 7 năm 1932) là một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam.  Ông là Bí thư đầu tiên của Thành ủy Hải Phòng và là Tổng biên tập đầu  tiên của báo Lao Động.
    
        
            |  | 
        
            | Nguyễn Đức Cảnh 
 | 
    
 
Chịu ảnh hưởng tư tưởng chống Pháp từ cha,  trong thời gian học tại Nam Định, anh cùng nhiều bạn học tham gia các  phong trào đòi thả Phan Bội Châu năm (1925), để tang Phan Chu Trinh năm  (1926). Năm 1929, thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương lâm  thời về công tác công vận, ông triệu tập Đại hội đại biểu công nhân các  tỉnh Bắc kỳ tại 15 Hàng Nón , thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ. Ông  được cử làm Hội trưởng lâm thời, phụ trách tờ báo Lao động và tạp chí  Công hội đỏ.
Năm 1929, với sự giúp đỡ của một cơ sở Đông  Dương Cộng sản Đảng, một tờ báo in bằng bản đất sét, trên giấy Đáp Cầu  một mặt ráp một mặt nhẵn, khổ 22x30cm, lấy tên là báo Lao Động đã ra đời  trong căn phòng nhỏ 10m2 ở ngõ Thông Phong, phố Hàng Bột . Nhân sự tờ  báo ban đầu do ông làm Tổng biên tập, với 2 nhà báo là Trần Hồng Vận  (Trần Học Hải) và một nữ đảng viên tên là Thu Vân.
7.     Tiến Sỹ Nguyễn Văn Huyên
Nguyễn Văn Huyên (1905-1975) là một Giáo sư,  tiến sỹ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn  hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo  dục Việt Nam trong thời gian dài nhất với 28 năm, 350 ngày.
    
        
            |  | 
        
            | Nguyễn Văn Huyên 
 | 
    
 
Năm 1926, ông sang Pháp học. Ông học đại học  Văn chương ở Montpellier, sau đó lên Paris học Luật và làm luận án tiến  sĩ ở Sorbonne. Năm 1935, ông trở về nước. Với học vấn và học vị cao bậc  nhất lúc đó, ông khước từ lời mời làm quan và những hứa hẹn của chính  quyền thực dân mà chỉ chọn nghề dạy học. Ông trở thành giáo sư Sử - Địa  trường Trung học Bảo hộ, tức trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An, Hà  Nội) cùng với nhiều nhà giáo như Nguyễn Mạnh Tường (tiến sĩ Văn chương  và Luật), Hoàng Xuân Hãn (thạc sĩ Toán), Nguyễn Xiển (kỹ sư), Ngụy Như  Kon Tum (thạc sĩ Lý-Hóa), một thế hệ những nhân vật nổi tiếng được đào  tạo ở Pháp. Các ông không chỉ truyền đạt kiến thức mà truyền cả niềm đam  mê khoa học, niềm tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước cho các thế hệ học  sinh trường Bưởi. Ở trường, giáo viên người bản xứ không được đối xử  bình đẳng nên ông thôi dạy, chuyển sang nghiên cứu với tư cách là biệt  phái viên ở trường Viễn Đông Bác Cổ vào năm 1938.
8.     Nhà thơ Chế Lan Viên
Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
    
        
            |  | 
        
            | Chế Lan Viên 
 | 
    
 
Năm 1939, ông ra học Tú Tài tại Hà Nội, sau  vào Sài Gòn làm báo, rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942 ông cho ra đời  tập văn Vàng Sao, thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí.  Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông tham gia tại Quy Nhơn rồi ra Huế tham  gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh, viết  bài cho báo Quyết Thắng của Việt Minh Trung bộ.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm công  tác báo chí ở Liên khu 4 cũ. Tháng 7-1949 trong chiến dịch ở Tà Cơn,  Đường 9 (Quảng Trị) Chế Lan Viên được kết nạp vào Đảng.
Hòa bình lập lại, ông về Hà Nội. Từ đấy cho  đến suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông cho ra đời hàng loạt tập thơ  như: Ánh sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thường - chim báo cáo (1967);  Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); và một loạt tác  phẩm lý luận, phê bình, văn xuôi như Phê bình văn học (1962); Suy nghĩ  và bình luận (1972); Những ngày nổi giận (1966).
Trong thời kháng chiến chống Mỹ, ông tham  gia trong Ban lãnh đạo Hội nhà văn Việt Nam, nhiều lần là sứ giả của văn  hóa Việt Nam tham dự trên các diễn đàn văn hóa Quốc tế ở Liên Xô (cũ),  Pháp, Nam Tư, Ấn Độ, Na Uy, Thụy Điển ... Ông cũng từng là đại biểu Quốc  hội bốn khóa liền (từ khóa IV đến khóa VII)./.