43 năm đã trôi qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi đi xa, nhưng những hình ảnh của Người vẫn mãi khắc sâu trong trái tim, hiểu biết của hàng triệu người dân, trong đó có hàng ngàn nhà báo ở Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, có những điều mà mọi cố gắng phân tích đều phải bất lực, bởi có lẽ, Hồ Chủ tịch là nhà báo đặc biệt nhất, kỳ lạ nhất trong lịch sử báo chí thế kỷ XX!
NHỮNG KỶ LỤC
1. Hồ Chí Minh (HCM) là nhà báo của kỷ lục - với rất nhiều kỷ lục phi thường theo đúng nghĩa của từ này. Kỷ lục ấn tượng vào bậc nhất là đi nhiều và hiểu nhiều.
Vào đầu thế kỷ XX, không có bất kỳ nhà báo nào có thể đi nhiều như Nguyễn Ái Quốc (tên của HCM vào thời gian đó). Từ năm 1911, hành trình thứ nhất dài đúng nửa vòng trái đất: Từ Việt Nam, Người đến định cư tại Boston – quê hương của cách mạng Mỹ. Hai năm sau, Người vượt Đại Tây Dương để đến nước Anh - cái nôi của cuộc cách mạng công nghiệp toàn thế giới. Tiếp đó là Người đến với Kinh đô Ánh sáng - cái nôi của nền văn hóa phương Tây thời cận đại, quê hương của cách mạng Pháp vĩ đại, của Công xã Paris, cho đến năm 1924. Cuối năm 1924 người rời Pháp để đến với quê hương Cách mạng tháng Mười. Sau tiếng bom Phạm Hồng Thái, Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng rời nước Nga để sang Trung Quốc, mở ra bước ngoặt lịch sử cho Cách mạng Việt Nam bằng việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6.1925). Có một sự kiện màchưa có bất kỳ một nhà cách mạng nào trên thế giới làm được; đó là: Chỉ chưa đầy hai tuần sau khi thành lập Thanh Niên, Nguyễn Ái Quốc đã xuất bản tờ báo cùng tên (21.6.1925 - sau này trở thành ngày báo chí VN). Rõ ràng, dù xét dưới bất kỳ góc độ nào đi nữa, chỉ trong vòng chưa đến 2 tuần mà xuất bản được một tờ báo cho tổ chức cách mạng thì đó là sự kiệt xuất của nỗ lực, tầm nhìn xa của mẫn tiệp, và - sự phi thường của cách hiểu rằng báo chí có vai trò quan trọng, to lớn đến thế nào trong suy nghĩ - tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (!) Cũng xin nhấn mạnh rằng sau khi đến Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc còn đến nhiều nước khác như Ấn Độ - cái nôi của tôn giáo cổ xưa nhất của loài người (Ấn Độ giáo) và cũng là cái nôi của tôn giáo đã đưa lý thuyết về sự từ bi, giải thoát thành lẽ sống - tức là Phật giáo.
2. Nếu nói về những nhà báo đi lên và thành công từ gian khổ, vất vả; trên thế giới có không ít, nhưng bôn ba gần khắp trái đất, làm hàng chục nghề khác nhau suốt 30 năm trời thì khó có thể tìm ra người thứ hai sau Nguyễn Ái Quốc. Một nhà báo, viết bài báo đầu tiên trong đời - ngày 2.8.1919, báo L’Humanité, bài “Vấn đề người bản xứ”(1) - khi chưa thật sự rành rẽ về ngôn ngữ (tiếng Pháp), là một điều không phải ai cũng làm được. Điều đó nói lên rất rõ rằng, báo chí “đến” với Người, trước hết là bởi yêu cầu chiến đấu, dùng ngòi bút để làm đòn xoay chế độ, vì dân tộc, vì độc lập, tự do; xuất phát từ lòng dũng cảm và lòng yêu nước vô bờ bến. Hồ Chí Minh cũng là nhà báo có nhiều bút danh nhất thế giới với gần 200 bút danh khác nhau; thậm chí có những “bút danh” kỳ lạ như: Bé Con, Xung Phong, X.L., T.L., Một Người An Nam, Một Người Bạn, Hy Sinh (trên báo Độc Lập, 1941-1942)...
3. Kỷ lục thứ ba - và có lẽ cũng là kỷ lục sẽ tồn tại bền lâu - bởi không ai có thể có cơ hội làm được nữa, đó là: Hồ Chí Minh là nhà báo viết rất nhiều (trên dưới 2.000 bài) và là nhà báo đạt đến vị trí lãnh tụ tối cao của một dân tộc, người sáng lập ra một chính đảng, một nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở vùng Đông Nam Á; đồng thời là nhà báo duy nhất được LHQ tôn vinh là Danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Hồ Chí Minh còn là nhà báo “kỳ lạ” nhất của hành tinh này: “Khởi nghiệp” bằng tiếng Pháp, tiếp tục bằng tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc; rồi sau đó mới viết bằng ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Việt! Sau cùng, cũng rất cần nhắc đến một sự đặc biệt nữa của nhà báo Nguyễn Ái Quốc: Người vừa là chủ nhiệm của tờ báo “Người Cùng Khổ” (Le Paria) đồng thời là chủ bút, họa sĩ biếm họa, thợ rửa ảnh, thủ quỹ, phát hành, bán báo... Dẫu chưa phải là tất cả, nhưng những sự kiện được thống kê tương đối trên đây, rất đủ cho mỗi nhà báo Việt Nam hôm nay nói riêng, nhân dân ta nói chung hiểu rõ sự phi thường trong con người - nhà báo Hồ Chí Minh…
Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về chuyện… VIẾT
Với Hồ Chí Minh, mục tiêu, động lực để viết báo là rất rõ ràng. Tại Trường Chỉnh Đảng Trung ương ngày 17.8.1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, trước khi viết phải tự hỏi: “Vì ai mà mình viết? Viết cái gì và mục đích viết làm gì?” (HCM, TT, T7, trang 117). Hồ Chí Minh cũng căn dặn rằng “không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu” (trang 118).
Sau này, trong Đại hội II của Hội Nhà báo Việt Nam ngày 16.4.1959, Hồ Chí Minh khẳng định, Người viết báo là để “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Mục tiêu rõ ràng, động cơ sáng trong và ngọt lành như nắng ban mai; đó là điều đầu tiên làm nên nhân cách và sự thành công của một nhà báo xuất sắc. Nguyên tắc “viết cho ai” được xác định rõ ràng nên ngôn ngữ báo chí của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đạt đến trình độ của một lăng kính đa chiều, luôn hấp dẫn và mới mẻ.
Ở Pháp, viết cho thực dân đế quốc đọc, Nguyễn Ái Quốc chơi chữ rất tài tình. Chẳng hạn, sống ở Paris, Người đặt tên tờ báo là Le Paria - có nghĩa là “dưới đáy, người khổ sở tận cùng trong xã hội”. Thời kỳ sống và hoạt động ở căn cứ địa Việt Bắc, những bài báo của Người chủ yếu viết cho đồng bào miền núi đọc, nên ngôn từ lại trở nên mộc mạc, dễ hiểu. Chúng ta rất dễ nhận thấy một điểm đáng chú ý: Viết cho thanh niên, Hồ Chí Minh dùng ngôn ngữ của lớp trẻ; viết cho thiếu nhi là cách dẫn dụ mộc mạc của ngôn từ giản dị, viết cho nông dân là ngôn ngữ của chân quê...
Nhà báo Nguyễn Ái Quốc còn là một nhà báo rất năng động, nhạy cảm. Chúng ta hãy hình dung cái thuở mà Le Paria “tung hoành” trong 38 số cách đây gần... 90 năm. Thời đó mà trang 4 của báo đã có đăng quảng cáo thuốc men, đăng giờ tàu đến và đi, quảng cáo cho các dụng cụ cắt cỏ... thì mới hiểu Nguyễn Ái Quốc đã “làm” báo vất vả và sáng tạo như thế nào. Nên lưu ý rằng, theo tài liệu của mật thám Pháp, có lúc Le Paria phát hành đến 2.000 bản, một nửa được gửi cho các nước thuộc địa (!).
Phong cách của nhà báo Hồ Chí Minh còn là sự hiểu biết rất rộng, rất sâu mà lại rất gần gũi quần chúng. Đọc những bài báo của Người, chúng ta kinh ngạc về kiến thức: Từ Ấn Độ đến Palestine, từ Tunisia đến Hoa Kỳ, từ Trung Quốc đến Madagasca...; gần như cái gì Nguyễn Ái Quốc cũng hiểu một cách tường tận. Hiểu biết như thế, những bài báo không sắc, không sâu, không sinh động mới là chuyện lạ.
Những điều không cũ bao giờ
Bài báo sau cùng mà Hồ Chí Minh viết là bài: “Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng”, ký tên T.L, đăng trên báo Nhân Dân ngày 1.6.1969 (HCM, TT, T. 12, trang 467). Đó không hề là sự ngẫu nhiên. Nếu như bài báo đầu tiên Người viết là vì độc lập cho dân tộc Việt Nam, thì bài cuối cùng là “muôn vàn tình thương yêu” dành cho các cháu thiếu niên, nhi đồng. Ý chí chiến đấu mạnh mẽ và cái TÂM rộng lớn, sâu sắc ấy là điều cần nhất cho bất kỳ một nhà báo nào khi cầm bút.
Trong thư căn dặn những người sắp trở thành nhà báo do Báo Cứu Quốc tổ chức năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra những khuyết điểm của báo chí của ta như: Tuyên truyền không kịp thời, chính trị suông quá nhiều, không biết giữ bí mật, đôi khi đăng tin vịt, tờ báo không vui... Ngẫm lại, cứ ngỡ những điều Người nói như vừa mới diễn ra sáng nay! Vẫn còn không ít tờ báo “chính trị suông” quá nhiều, hay không biết cách để giữ bí mật quốc gia. Có báo thật buồn tẻ từ trang đầu cho tới trang cuối; thậm chí, người dân không còn muốn đọc nữa.
***
Hơn 90 năm đã trôi qua kể từ khi Nguyễn Ái Quốc viết bài báo đầu tiên; 87 năm, kể từ khi Báo Thanh Niên ra số đầu tiên (21.6.1925), mở đầu cho dòng báo cách mạng của dân tộc; báo chí Việt Nam hôm nay đã phát triển mạnh mẽ về cả số lượng lẫn chất lượng. Chúng ta ghi nhớ công lao của nhà báo vĩ đại Hồ Chí Minh đồng thời cũng rất cần ghi nhớ thêm rằng, phong cách và tinh thần, tư tưởng và ý chí, tâm huyết và ngọn bút mẫn tiệp, sắc sâu của Người vẫn sống mãi với sự tươi mới, vững bền bất kể thời gian, vượt qua mọi không gian. Có một câu chuyện Bác Hồ kể làm tôi khi đọc xong thì nhớ mãi: Người nói rằng, riêng về chuyện VIẾT, người thực sự sung sướng có 3 lần(!) Lần thứ nhất là bài đầu tiên được đăng (chỉ dài có 3 dòng - bài này đến nay vẫn chưa tìm được). Lần thứ hai là khi truyện ngắn đầu tiên được đăng trên báo L’Humanité và lần thứ ba là sau khi viết xongTuyên ngôn Độc lập (HCM TT, T.7, trang 123-124). Câu chuyện trên thật nhiều ý nghĩa! Nó cho thấy rằng Bác Hồ luôn coi mình là người bình thường, nghĩa là cũng ái, ố, hỷ, nộ như mỗi chúng ta, chứ không phải gần như thần thánh mà đôi khi báo chí đã tôn vinh quá lời. Cái diệu tuyệt hơn là Bác ngầm chỉ rằng làm báo khó lắm, cái sự viết khó vô cùng. Thiên tài lỗi lạc như Người mà cả đời cầm bút chỉ sung sướng có 3 lần thôi - đủ để biết rằng, có được một bài báo hay, một bài báo tốt, không bao giờ là chuyện có thể đến dễ dàng… Quả thật, cho dù đọc Hồ Chí Minh Toàn tập không ít lần rồi, tôi (và hầu như tất cả chúng ta) vẫn phải thấy… ngỡ ngàng!..
Theo Tạp chí Văn hóa Nghệ An
|