Vào một buổi tối, tại ngôi đình cổ Kim Ngân ở số 42-44 phố Hàng Bạc (Hà Nội), đêm diễn của Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội diễn ra như thường lệ. Ngay giữa chánh điện, một người đào nương trạc ngoài 50 tuổi, nét mặt đượm buồn, mình mặc áo dài nhung, ngồi xếp bằng chỉn chu trên chiếu, hai tay nhịp nhàng gõ phách và đắm đuối hát. Cạnh đó là một kép đàn và một quan viên ngồi đệm đàn và giữ nhịp cho tiếng hát của người đào nương.
Bao nhiêu năm nay, đào nương Bạch Vân gắn bó với
những đêm ca trù ở đình Kim Liên trong khu phố cổ Hà Nội
|
Đêm càng về khuya, giọng hát mộc của người đào nương hòa cùng tiếng đàn đáy, nhịp trống chầu như càng lay động lòng người, gợi nhớ về hình ảnh của một đêm hát cửa đình xưa kia.
Người đào nương tài danh ấy chính là Bạch Vân, người đã gắn bó với ca trù gần 30 năm nay. Bà sinh năm 1957, quê ở Thanh Chương, Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình có tinh thần Nho giáo truyền thống, nên ngay từ nhỏ, bà đã được cha hướng dẫn cách ngâm thơ Đường, mẹ dạy cho cách hát những khúc dân ca xứ Nghệ.
Bạch Vân bắt đầu học ca trù vào những năm 80 của thế kỷ trước. Con đường dấn thân vào nghiệp ca trù của bà cũng lắm gian nan. Gần chục năm trời, bà cất công đi tìm và nghiên cứu các tài liệu cổ nói về ca trù; lặn lội tìm gặp các nghệ nhân nổi danh trong làng ca trù xưa ở Hà Nội, Hải Dương, Nghệ An, Hà Tĩnh... để “tầm sư học đạo”.
Bà may mắn được các nghệ nhân nổi tiếng trong làng ca trù Việt Nam như cụ Quách Thị Hồ, cụ Nguyễn Thị Phúc, cụ Chu Văn Du và cụ Phó Thị Kim Đức mở lòng truyền nghề.
Nhờ đó mà Bạch Vân học được ở các cụ mọi kỹ thuật của ca trù, từ những cách cơ bản như lấy hơi, nhả chữ, chuốt phách… cho đến những kỹ thuật khó, những bài hát cổ, rồi đến cả cách thể hiện thần thái trong khi biểu diễn.
Đắm đuối với nghệ thuật ca trù, Bạch Vân bàn với người thầy của mình là cụ Chu Văn Du, Phó quản ca giáo phường Khâm Thiên xưa, thành lập Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội.
Năm 1991, Câu lạc bộ ra đời với gần 200 hội viên, trở thành câu lạc bộ ca trù đầu tiên ở Việt Nam. Từ khi có Câu lạc bộ, Bạch Vân dồn hết tâm sức để mở mang, phát triển nó. Bà tự bỏ tiền túi tổ chức các buổi biểu diễn miễn phí, đích thân đi mời và đưa đón các nghệ nhân tới biểu diễn. Bà còn mở cả lớp dạy ca trù dành cho lớp trẻ. Không những thế, Bạch Vân còn giúp Cục Nghệ thuật Biểu diễn của Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch tổ chức Liên hoan Ca trù, tổ chức các buổi hội thảo về ca trù.
Ca trù hay còn gọi hát ả đào, là loại hình nghệ thuật âm nhạc thính phòng truyền thống của Việt Nam, xuất hiện vào khoảng cuối thế kỉ XV đầu thế kỷ XVI và phát triển mạnh vào những năm 30 của thế kỷ trước. Ca trù là sự phối hợp độc đáo và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc, từng là một loại hình âm nhạc trong cung đình, được giới quý tộc và trí thức yêu thích. Năm 2009, ca trù được UNESCO công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
|
Đặc biệt, bà đã đóng góp nhiều công sức cũng như tài liệu giúp Cục Di sản Văn hóa hoàn thiện hồ sơ về di sản ca trù để đệ trình lên UNESCO, để rồi năm 2010, ca trù chính thức được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
Không chỉ học hỏi kinh nghiệm từ các nghệ nhân đi trước, nghệ sỹ Bạch Vân còn tìm tòi nghiên cứu học tập bằng con đường chính thống. Bà đã bảo vệ thành công luận án thạc sĩ về ca trù tại Viện Nghiên cứu Văn hóa và sắp tới sẽ bảo vệ luận án tiến sĩ tại Học viện Khoa học Xã hội.
Với những đóng góp không mệt mỏi cho nền nghệ thuật ca trù, năm 2012, nghệ sĩ Bạch Vân vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú. Mặc dù đã dành được nhiều thành công cũng như danh hiệu cao quý nhưng nghệ sỹ Bạch Vân vẫn đắm đuối với sự nghiệp bảo tồn và phát triển của ca trù, bởi hơn ai hết bà hiểu rằng, ca trù là di sản cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại./.
(BAVN)
Nguồn Quehuongonlina.vn