Trang chủ Liên hệ       Thứ hai, Ngày 23/12/2024
 
 
THÔNG TIN
Giới Thiệu Hội
Trang Thể Thao
Sức khỏe & Đời sống
Ẩm thực Nghệ Tĩnh
Việt Nam Đất Nước Con Người
  -  Con Người Việt Nam
  -  Đất Nước Việt Nam
Khoa học & Môi Trường
Chuyện lạ đó đây
Nhịp cầu Nhân ái
DANH SÁCH TẤM LÒNG VÀNG
Tin tức Nghệ Tĩnh
Truyền thống Nghệ Tĩnh
Tâm sự cuộc sống
Văn hóa - Xã hội
Văn Nghệ
Thư Viện
Góc Cười
Tin Trong nước -Tin Quốc Tế -Tin Ucraina
Tin Cộng Đồng
Người Việt Trên Thế Giới
BÀI DỰ THI VỀ XỨ NGHỆ
QUẢNG CÁO

 
Trang chủ > Việt Nam Đất Nước Con Người >
  Thọ mai gia lễ Thọ mai gia lễ , Người xứ Nghệ Kiev
 

 

Thọ mai gia lễ


Thọ mai gia lễ là gia lễ nước ta hay Trung Quốc ?

    "Thọ mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo Chu Công gia lễ tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc nhưng không rập khuôn theo Tầu. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn phổ biến áp dụng, nhất là tang lễ.
Tác giả của "Thọ mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân (1690-1760) hiệu Thọ Mai người làng Hoàn Hậu, nay là xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, đậu Tiến sĩ năm 1721 (năm thứ 2 triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
Trong "Thọ mai gia lễ" có trích dẫn một phần của Hồ Thượng thư gia lễ. Hồ Thượng thư tức Hồ Sỹ Dương (1621-168 cũng người làng Hoàn Hậu, đậu tiến sĩ năm 1652 tức năm thứ 4 triều Khánh Đức, Thượng thư bộ Hình, tước Duệ Quận công. 

I.. Ba cha tám mẹ là những ai? 

Theo "Thọ mai gia lễ":
Ba cha là: 
Thân phụ: Cha sinh ra mình. 
Kế phụ: Sau khi cha chết, mẹ lấy chồng khác, chồng mới của mẹ là kế phụ hay, bố dượng. 
Dưỡng phụ: Bố nuôi. 

Tám mẹ là: 
Đích mẫu: Vợ cả của bố. 
Kế mẫu: Khi còn nhỏ mẹ đã mất, cha lấy vợ khác để nuôi nấng mình. 
Từ mẫu: Mẹ chết từ tấm bé, cha sai người vợ lẽ nuôi mình bú mớm. 
Dưỡng mẫu: Mẹ nuôi, cha mẹ nghèo cho mình để người khác nuôi. 
Xuất mẫu: Là mẹ sinh ra mình nhưng bị cha ruồng rẫy. 
Giá mẫu: là mẹ sinh ra mình, nhưng khi cha mất thì đi lấy chồng khác. 
Thứ mẫu: Là mẹ sinh ra mình nhưng là vợ lẽ của cha. 
Nhũ mẫu: Mẹ vú, cho mình bú mớm từ khi còn tấm bé. 

Trên đây là định nghĩa theo "Thọ mai gia lễ", chưa nói đến những người đã lấy vợ lấy chồng thì cha mẹ vợ, cha mẹ chồng cũng như cha mẹ mình. Vậy thì, còn ba loại nhạc phụ và tám loại nhạc mẫu. Tất cả phải 6 cha,16 mẹ. 

II.. Chúc thư là gì? 

    "Chúc" là lời dặn dò, phó thác. "Chúc thư" hay "Di chúc" là lời dặn dò của người chủ gia đình, người lãnh đạo đất nước trước khi mất. Chúc thư, di chúc viết thành văn bản có giá trị hành chính, pháp lý. Nếu không biết chữ, hoặc yếu quá không viết được nữa thì nhờ người khác viết, đọc lại cho nghe rồi ký tên hoặc điểm chỉ vào dưới. Di chúc của nhà vua thì gọi là di chiếu.
Nội dung chính của chúc thư thường là việc chia gia tài. Nhà có bao nhiêu ruộng đất, nhà cửa, chia cho con trai con gái, ai được hưởng khoảnh nào, mấy mẫu, mấy sào ở đâu, còn lại bao nhiêu dành cho mẹ làm của dưỡng lão, giao người nào chăm nom. Nếu còn bao nhiêu nợ làng, nợ họ cũng giao phó cho con nào phải đòi, phải trả. Quy định giành bao nhiêu làm ruộng hương hỏa, giao cho con trưởng hoặc cháu đích tôn. Di chiếu của nhà vua giao cho ai là đại thần có mệnh phò thái tử lên ngôi. Nếu ngôi thái tử chưa định thì chuyền chỉ cho hoàng tử nào nối ngôi...
Thời nay, nam nữ bình quyền, nếu cha mất trước đã có mẹ nắm toàn bộ quyền hành. Thời trước, người mẹ, người vợ sau 3 năm tang chồng nếu muốn tái giá thì đi tay không, nếu ở lại nuôi con cũng không được nắm toàn quyền, còn phải lệ thuộc các ông chú, ông bác trong họ. Nếu còn có nợ thì phải trả hết.
Thế nên, có những gia đình giàu có nhưng vô phúc, bạc đức: Cha mẹ nằm xuống anh em đùn đẩy nhau, chưa lo việc chôn cất, chỉ chăm chú tranh giành tài sản, để thiên hạ xỉ vả. Vì vậy, khi còn khoẻ, các cụ đã phải lo xa: Chia gia tài trước, định trách nhiệm sẵn, mua sắm bộ hậu sự (áo quan) có người còn dặn trước cả việc chôn cất, tang chế, cỗ bàn, đình đám..
Di chúc của Tam nguyên Yên Đổ: 


"Kém hai tuổi xuân đầy chín chục
Số thầy sinh phải lúc dương cùng
Đức thày đã mỏng mòng mong
Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy
Học chẳng có rằng hay chi cả
Cưỡi đầu người kể đã ba phen
Tuổi là tuổi của gia tiên
Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngày.
ấy thủa trước ông mày chẳng đỗ
Hoá bây giờ cho bố làm nên
Ơn vua chửa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửng lên thẹn trời
Sống không để tiếng đời ca thán
Chết được về quê quán hương thôn
Mới hay trăm sự vưông tròn
Sống lâu đã trải chết chôn chờ gì?
Đồ khâm niệm chớ nề xấu tốt
Kín chân tay đầu gót thời thôi
Cỗ đừng to lắm con ơi
Hễ ai chạy lại con mời người ăn 
 
Tế đừng có viết văn mà đọc
Trướng đối đừng gấm vóc làm chi
Minh tinh con cũng bỏ đi
Mời quan đề chủ con thì không nên
Môn sinh chớ bỏ tiền đạt giấy
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi
Khách quen chớ viết thiếp mời
Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu
Chẳng qua nợ để cho người sống
Chết đi rồi còn ngóng vào đâu
Lại mang cái tiếng to đầu
Khi nay bày biện, khi sau chê bàn
Cờ biến của vua ban ngày trước
Khi đưa thày con rước đầu tiên
Lại thuê một lũ phường kèn
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng
Việc tống táng nhung nhăng qua quýt
Cúng cho thầy một chút rượu hoa
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: "Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu" 
 

III.. Cư tang là gì ? 

    Thời xưa, dẫu làm quan đến chức gì, theo phép nước, hễ cha mẹ mất đều phải về cư tang 3 năm trừ trường hợp đang bận việc quân nơi biên ải hay đi sứ nước ngoài. Lệ này không quy định đối với binh lính và nha lại. Nếu ai vì tham quyền cố vị, giấu diếm không tâu báo để về cư tang, bị đàn hặc vì tội bất hiếu, sẽ bị triều đình sử phạt biếm truất. Trong thời gian cư tang, lệnh vua không đến cửa.
Ba năm cư tang là ba năm chịu đựng gian khổ, nhẫn nhục, không dự mọi cuộc vui, không dự lễ cưới, lễ mừng, không uống rượu (ngoài chén rượu cúng cha mẹ), không nghe nhạc vui, không ngủ với vợ hoặc nàng hầu, trừ trường hợp chưa có con trai để nối dõi tông đường, ngoài ra ai sinh con trong thời kỳ này cũng bị coi là bất hiếu. Không được mặc gấm vóc, nhung lụa, không đội mũ đi hia, thường đi chân không, cùng lắm chỉ đi guốc mộc hoặc giày cỏ.
Dầu làm đến tể tướng trong triều, khi khách đến viếng cha mẹ mình, bất kể sang hay hèn cũng phải cung kính chào mời và lạy tạ (hai lạy hay ba vái dài). Khi ra đường, không sinh sự với bắt cứ người nào. ở trong nhà, đối với kể ăn người ở cũng không được to tiếng.
Ba năm sầu muộn, tự nghiêm khắc với chính mình, rộng lượng với kẻ dưới, cung kính với khách bạn, để tỏ lòng thành kính với cha mẹ. 

IV. Vì sao có tục mũ gai đai chuối và chống gậy? 

Tục đội mũ rơm quấn thật to quanh đầu, thắt lưng bằng dây gai, dây chuối ngày nay đã lỗi thời, nhiều nơi đã bãi bỏ, còn tục chống gậy chỉ áp dụng đối với con trai tang cha (gậy tre) tang mẹ (gậy vông),vẫn còn ở nhiều địa phương.
Nguyên do: Đời xưa, đường đi lại còn hẹp, có khi còn phải leo núi cao, người mất dược chôn cất ở nơi xa khu dân cư, trong rừng núi, có nơi chôn ở triền núi đá có nhiều hang động. Đã có trường hợp, người con vì quá thương xót cha mẹ, khóc lóc thảm thiết, đến nỗi không kể gì đến sinh mạng của mình, đập đầu vào vách đá, khi leo núi đi về vì thương cảm quá mất cả thăng bằng ngã lăn xuống vực. Để tráng tình trạng trùng tang thảm hại đó, người ta mới đặt ra lệ phải quấn quanh đầu những vật liệu mềm, xốp để nếu va vấp đỡ gây tổn thương và đặt ra lệ phải chống gậy để đi đứng an toàn hơn. Vật liệu dễ kiếm nhất, giàu nghèo ai cũng có thể tự liệu được và ở đâu cũng có thể kiếm được để làm chất đệm, đó là rơm, lá chuối, dây gai, dây đay. Xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của một số người, dần dần trở thành phong tục phổ biến.
Vì ngày thường đi lao động ở đồng ruộng, núi rừng hoặc đi đứng đều mặc quần áo gọn bó vào người, đến khi có tang tế phải mặc áo dài rộng, dễ vướng gai góc nên phải có dây đai, tục đó cũng xuất xứ từ việc tránh nạn trùng tang. 

V. Năm hạng tang phục (Ngũ phục) là gì? 

Theo "Thọ mai gia lễ", có năm hạng tang phục tuỳ theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình phân biệt thân sơ: 

1.Đại tang: Trảm thôi và tề thôi. 

Quần áo sổ gấu gọi là trảm thôi: Con để tang cha.
Quần áo không sổ gấu gọi là tề thôi: Con để tang mẹ, vợ để tang chồng khi cha chưa mất.
Thời hạn: 3 năm, đời sau giảm bớt còn 2 năm 3 tháng (sau lễ giỗ đại tường 2 năm, thêm 3 tháng dư ai).
áo sô, khăn sô có hai giải sau lưng (gọi là khăn ngang).
Nếu cha mẹ đều đã mất thì hai giải bằng nhau, nếu còn mẹ hoặc còn cha thì hai giải dài ngắn lệch nhau. 
Con trai chống gậy: Tang cha gậy tre, tang mẹ gậy vông, mũ rơm quấn đầu, dây chuối, dây đai thắt lưng.
Thời nay, nhiều nơi đã bãi bỏ những tang phục này. ở thành phố nhiều nhà dùng băng đen theo tang chế châu Âu, theo ý chúng tôi, tiện hơn. 
Con trai, con gái, con dâu đều để tang cha mẹ. (Kể cả đích mẫu, kế mẫu, dưỡng mẫu, từ mẫu và dưỡng phụ).
Vợ để tang chồng.
Nếu con trưởng mất trước thì cháu đích tôn để tang ông bà nội cũng đại tang thay cha. 

2. Cơ niên
Để tang một năm. Từ niên cơ trở xuống dùng khăn tròn, vải trắng, không gậy. 

Cháu nội để tang ông bà nội.
Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở cùng, nếu không ở cùng thì không tang; trước có ở cùng sau thôi thì để tang 3 tháng.
Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị bố rẫy (xuất mẫu), hoặc cha chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu).
Chồng để tang vợ cả có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.
Cháu để tang bác trai bác gái, chú, thím và cô ruột.
Anh chị em ruột để tang cho nhau (cùng cha khác mẹ cũng tang một năm, cùng mẹ khác cha thì tang 5 tháng).
Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi làm con nuôi nhà người.
Chú, bác, thím cô ruột để tang cho cháu ( con anh em ruột).
Ông bà nội để tang cho cháu trưởng (đích tôn).
Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu tang các con chồng, thứ mẫu tang con mình và con chồng như nhau đều một năm. Tang con dâu cả cũng một năm.
Con dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức vợ lẽ cha chồng).
Rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã láy vợ khác cũng vậy).
Nàng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng cũng như con mình (các họ hàng bàng thân bên nhà chồng đều không tang). 

3. Đại công: để tang 9 tháng. 

Anh chị em con chú con bác ruột để tang cho nhau.
Cha mẹ để tang con dâu thứ hoặc con gái đã lấy chồng.
Chú, bác thím ruột để tang cháu (con gái đã xuất giá, con dâu của anh em ruột).
Cháu dâu để tang ông bà của chồng, chú, bác, thím ruột, hoặc cô ruột của chồng.
Mẹ để tang con dâu thứ và con gái riêng của chồng.
Con gái đã xuất giá để tang bác trai, bác gái, chú thím, cô ruột. 

4. Tiểu công: Để tang 5 tháng

Chắt để tang cụ. (Hoàng tang: Chít khăn vàng)
Cháu để tang anh chị em ruột của ông nội (ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô).
Con để tang vợ lẽ, nàng hầu của cha ( nếu cha giao cho nuôi mình thì để tang 3 năm như mẹ đẻ).
Cháu để tang đường bá thúc phụ mẫu và đường cô (anh chị em con chú bác ruột của cha).
Anh chị em con chú, bác ruột để tang cho vợ của nhau.
Anh chị em chung mẹ khác cha để tang cho nhau (vợ con của anh chị em ấy thì không tang).
Chú bác ruột để tang cho cháu dâu (con dâu của anh em ruột).
Ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô để tang cho cháu (tức là cháu nội của anh em ruột).
Ông bà nội để tang cho vợ cháu đích tôn hoặc cháu gái xuất giá.
Cháu ngoại để tang ông bà ngoại và cậu ruột, dì ruột (anh chị em ruột của mẹ, kể cả đối với anh chị em ruột của đích mẫu, thứ mẫu, kế mẫu).
Cháu dâu để tang cô ruột của chồng.
Chị dâu, em dâu để tang anh chị em ruột của chồng và con của những người đó (tức là cháu gọi bằng bác, bằng thím). 

5. Ty ma Phục: Tang 3 tháng. 

Chít để tang can (kỵ) nội (ngũ đại : Hồng tang chít khăn đỏ).
Chắt để tang cụ nhà bác, nhà chú (tằng tổ bá thúc phụ mẫu và tằng tổ cô, tức là anh em ruột với cụ nội).
Cháu để tang bà cô đã lấy chồng (chị em ruột với ông nội).
Cháu để tang cô bá (chị em con chú bác ruột với bố).
Con để tang bố dượng (nếu trước có ở cùng, sau mới về bên nội).
Con để tang nàng hầu của cha.
Con để tang bà vú (cho bú mớm).
Cháu để tang tộc bá thúc phụ mẫu (anh em cháu chú, cháu bác với cha).
Chồng để tang vợ lẽ nàng hầu.
Anh chị em họ nội 5 đời để tang cho nhau.
Bố mẹ vợ để tang con rể.
Ông bà ngoại để tang cháu ngoại và cháu dâu ngoại.
Ông của chồng để tang cháu dâu.
Cụ để tang cho chắt nội.
Cháu để tang vợ cậu, chồng cô, chồng dì có cùng ở một nhà.
Anh chị em con cô ruột và bạn con dì ruột để tang cho nhau.
Cậu ruột để tang vợ của cháu trai
Cháu dâu để tang ông bà ngoại của chồng, cậu ruột, dì ruột chồng
Cháu dâu để tang các ông bà anh chị em ruột với ông nội chồng.
Chắt dâu để tang cụ nội của chồng.
Cụ để tang chắt nội trai gái.
Ông bà để tang các cháu gái của con nhà chú, nhà bác.
Tang bên cha mẹ nuôi: 
Kỵ bên cha nuôi thì 3 tháng, cụ bên cha nuôi thì 5 tháng, ông bà thì một năm.
Cha mẹ nuôi thì áo bằng gấu, hoặc sổ gấu 3 năm có cả gậy.
Từ ông bà trở lên nếu mình thừa trọng cũng sổ gấu 3 năm.
Ông bà sinh ra mẹ nuôi thì 5 tháng, còn thì đều không có.
Tang họ nhà mình (Đã là con nuôi người khác, để tang bên họ của mình): 
Ông bà sinh ra cha thì 9 tháng.
Cha mẹ sinh ra mình thì 1 năm có gậy.
Bác trai bác gái, chú, thím và cô là anh chị em ruột với cha thì đều 9 tháng. Cô đã giá thì 5 tháng.
Anh chị em ruột thì 9 tháng, chị dâu, em dâu thì 3 tháng, chị em đã xuất giá thì 5 tháng.
Ông bà sinh ra mẹ thì 3 tháng.
Xét trong lễ nói rằng: Con gái đã xuất giá thì các tang có giáng, song đi lấy chồng, hoặc phải chồng rẫy bỏ, hoặc chồng chết, con lại chẳng có, lại trở về nhà cũng như chưa lấy chồng, tang chẳng có giáng
Nếu đương để tang cha mẹ được một năm mà chồng rẫy bỏ thì phải tang cha mẹ 3 năm, hoặc để tang cha mẹ được 1 năm đã trừ phục đoạn thì chẳng được để lại 3 năm, dù phải chồng dẫy trước, sau mới để tang cha mẹ chưa đủ 1 năm mà chồng mới gọi về thì chẳng nên về vội phải nên để trọn 3 năm. 

1. Trường phục: có ba loại: 

2. Trưởng trường: Từ 16-19 tuổi 

3. Trung trường: Từ 12-15 tuổi 

4. Hạ trường: Từ 8-11 tuổi 

(Đều lấy thứ tự giáng một bậc).
Ví dụ: Giai đã lấy vợ, gái đã lấy chồng, dẫu còn trẻ cũng không thể gọi là trường được, nhưng vốn mình phải tang 1 năm trưởng trường giáng xuống 9 tháng, trung trường giáng xuống 7 tháng, hạ trường giáng xuống 5 tháng.
Như vốn tang 9 tháng, trưởng trường giáng 7 tháng, trung trường giáng 5 tháng, hạ trường giáng 3 tháng, các trường hợp khác đều như thế mà suy. 

VI. Cha mẹ có để tang con không? 

    Tang phục là thể hiện tình nghĩa, có phân biệt thân sơ "Họ đương 3 tháng, láng giềng 3 ngày", thể hiện lòng thương xót giữa kẻ mất người còn. Vì thế, chẳng những thân thích mà người ngoài đến phúng viếng cũng nên đeo băng tang. Theo "Thọ mai gia lễ" thì chẳng những cha mẹ để tang con mà ông bà và cụ kỵ cũng để tang hàng cháu, hàng chắt.
"Thọ mai gia lễ" quy định như vậy nhưng một số địa phương Bắc bộ quan niệm "Phụ bất bái tử" (cha không lạy con), Con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, là bất hiếu, con chưa kịp báo hiếu cha mẹ đã trốn nợ đời, chẳng những cha mẹ không để tang con mà khi khâm liệm con còn phải quấn trên đầu tử thi một vòng khăn trắng. Nếu là đàn bà mà tứ thân phụ mẫu còn cả thì phải quấn đến hai vòng, có nghĩa là ở dưới cõi âm cũng để tang báo hiếu sẵn cho cha mẹ đang ở trên dương trần. 

VII. Tại sao có tục kiêng không để cha mẹ đưa tang con?

    Tử biệt sinh ly, ai không thương xót, nhưng theo quy luật tự nhiên, cha mẹ già yếu từ trần, con báo hiếu cha, mẹ, đưa tang bố mẹ là chuyện thường tình. Con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, nhiều trường hợp chết non, gây nhiều nỗi đau thương cho bố mẹ. Giờ phút hạ huyệt là giờ phút xúc động đến cực điểm, có nhiều ông bố bà mẹ đã bị ngất lịm đi. Đã có nhiều trường hợp mẹ chết luôn bên huyệt chôn con. Hơn nữa, ngày xưa, phương tiện và thuốc thang cấp cứu khó khăn, không cho cha mẹ đưa tang con để vơi bớt nỗi đau buồn và để tránh nạn trùng tang là đúng. Chẳng những cha mẹ mà các ông già bà cả trong nội thân, sức khoẻ đã tàn cũng không được dự đưa tang, sợ vướng đến sức khoẻ. 

PHẦN 1: 
 
KHÁI NIỆM: 


Tang là sự đau buồn khi có người thân mới chết, là lễ chôn cất người chết (an táng, mai táng), là dấu hiệu (áo, mũ, khăn...) để tỏ lòng thương tiếc người chết. 

Tang chế là phép tắc quy định việc đưa đám và để tang. 
Tang lễ (lễ tang) là nghi lễ chôn cất người chết. 

Từ đó có những từ: tang phục, tang sự, tang gia, tang chủ, đám tang, để tang, bịt khăn tang, đeo băng tang, mãn tang, xả tang, tống tang, hộ tang ... 

Ma (ma chay) là lễ chôn cất và cúng người chết theo tục lệ cổ truyền. Đám ma còn gọi là đám tang. 

Như vậy tang ma có nghĩa là lễ chôn cất cúng kính, cùng những quy định về việc để tang và đưa đám người thân mới chết. 

Khi có tang ma, người ta đem tiền hay đồ lễ đến viếng để tỏ lòng thương tiếc người chết và thăm hỏi chia buồn cùng tang quyến, gọi là phúng viếng hay phúng điếu. Điếu ca là bài thơ tỏ lòng thương tiếc người chết. Điếu văn là bài văn tỏ lòng thương tiếc người chết đọc khi làm lễ tang. 

Con người sinh ra, lớn lên, học hành, thi cử, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, tạo lập công danh sự nghiệp, dù có hiển hách đến đâu, cuối cùng cũng theo quy luật sinh lão bệnh tử trở về cát bụi, để lại bao niềm tiếc thương vô hạn cho người ở lại. 

Tục lệ tang ma của người xưa nhầm thể hiện một phần nào sự tiếc thương vô hạn đó, bởi lẽ: 

- Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn 

- Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi 

Cũng giống như tục lệ cưới gả, tục lệ tang ma của người Việt xưa ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Tàu, nhưng vẫn giữ được nét đặc thù văn hóa Việt Nam. 

Thọ Mai Gia Lễ là bộ sách Việt Nam dựa vào sách Chu Công Gia Lễ của Trung Quốc. Tác giả Thọ Mai, tên thật là Hồ Sỹ Tân (1690-1760) thời vua Lê chúa Trịnh, người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, đậu Tiến sĩ năm 1721. Thọ Mai Gia Lễ của ông có trích dẫn 1 phần của Hồ Thượng Thư Gia Lễ, Hồ Thượng Thư tức Hồ Sỹ Dương (1652- ?) người cùng làng Hoàn Hậu đậu Tiến sĩ năm 1652 làm Thượng thư Bộ Hình, tước Duệ Quận Công, làm quan đến chức Hàn Lâm Thị Chế. 

Việc tang ma xưa nay dựa vào sách Thọ Mai Gia Lễ, nhưng xuống đến làng xã, người bình dân tổ chức linh động đơn giản, chú trọng ở lòng thành cùng cách ăn ở đối xử sao cho phải đạo làm người: 

Lễ bạc lòng thành
Đức trọng quỷ thần kinh
Chẳng ai khen đám cưới, chẳng ai cười đám ma 

Tuy nhiên, đối với nhà phú quý, hay triều đình, thì có vô số những nghi lễ nhiêu khê, rườm rà, phức tạp, tốn kém. Thí dụ khi vua băng hà, các quan, các hoàng thân, các bà nội cung luân phiên dâng lễ tế, các cuộc vui chơi, hội hè, cưới gả trong nước bị cấm, từ quan lại đến cung đình đều phải để tang từ ba tháng 10 ngày đến ba năm, Bộ Lễ lo việc tang lễ, Khâm Thiên Giám lo chọn ngày giờ, thi hài nhà vua được chôn theo với vô số vàng bạc châu báu, lăng tẩm được xây dựng nguy nga tráng lệ, có khi phải tiến hành từ vài ba chục năm về trước lúc nhà vua vừa mới lên ngôi, hao tốn không biết bao nhiêu tiền bạc và có cả xương máu nữa. 

Sau đây là những tục lệ tang ma phổ biến của người Việt xưa tại các làng xã:


LÚC LÂM CHUNG 

Là lúc hấp hối, sắp tắt thở, sắp chết. 
Trong nhà có người thân (ông, bà, cha, mẹ) sắp mất, con cái vực đến nằm ở gian chính tẩm (gian chính để làm việc sinh hoạt trong nhà) hay gian bên cạnh, hỏi han có trăn trối gì không? Lấy 1 tấm lụa trắng dài gấp thành những khổ ngắn đắp lên ngực để khi hồn lìa khỏi xác thì hồn sẽ nhập vào đó, tấm lụa này được dùng để thắt hồn bạch. 

Thường các nhà đại phú không để tới lúc lâm chung mới trăn trối, mà đã lo viết di chúc, tức chúc thư, từ lúc còn mạnh khỏe. Chúc thư, tức di chúc (chúc: là lời dặn dò phó thác) là lời dặn dò phó thác của người chủ gia đình, chủ đất nước, được viết thành văn bản có giá trị hành chánh, pháp lý. Nếu không viết được thì nói cho người khác ghi, đọc lại cho nghe rồi ký tên hay lăn tay. Di chúc của vua gọi là di chiếu. Ngày xưa, sau 3 năm tang chồng, người vợ nếu tái giá thì ra đi tay không, nếu ở lại thủ tiết thờ chồng nuôi con, thì cũng không được toàn quyền mà phải bị lệ thuộc vào các ông chú ông bác trong họ chồng. 

TẮT HƠI 

Treo bông gòn trước lổ mũi không thấy động đậy là khí tuyệt, tức là đã tắt hơi rồi. 
Báo tin cho bà con dòng họ, làng xóm biết đã từ trần, gọi là cáo phó. 
Nhờ thư lại (viên chức nhỏ coi việc văn thư ở phủ, huyện) đặt tên hiệu, dùng nước trầm hương lau sạch sẽ, thay quần áo tươm tất, lấy 1 chiếc đủa để ngang giữa 2 hàm, lấy 1 tờ giấy bản (loại giấy trắng) phủ lên mặt, trải chiếu dưới đất đặt người chết xuống 1 phút rồi đưa lên chỗ cũ. 
Nhờ thầy lễ lo việc tang lễ coi ngày giờ khâm liệm mai táng; nhờ thầy chùa đến tụng kinh (nếu theo Phật); nhờ thầy địa coi huyệt mả... 
Lập tang chủ là trưởng tử, nếu không có trưởng tử thì cháu đích tôn. 
Lập ty thơ coi sổ phúng điếu, ty hóa coi sổ chi tiêu. 
Mua quan tài, đèn cầy, hương hoa trầm trà, rượu... mua mạt cưa, tro, vôi... (để liệm) mua khăn, lược... (để tắm, cha thì con trai tắm, mẹ thì con gái tắm) may quần áo tang, khăn tang, băng tang ... 

LỄ PHẠN HÀM 
Lấy 1 nắm gạo và 3 đồng tiền kẽm mài sạch bỏ vào miệng người chết (nhà phú quý dùng 3 miếng vàng sống, 9 hạt châu) gọi là lễ phạn hàm. Người xưa nói: 
"Đấng thiên tử thì dùng trân châu, vua và chư hầu thì dùng ngọc, quan đại phu thì dùng ngọc bích, kẻ sĩ thì dùng bối, dân dã thì dùng cơm gạo, tiền kẽm..."

LỄ CHIÊU HỒN 
Làm lễ phạn hàm xong, tới lễ chiêu hồn: con cái lấy cái áo của người chết vừa thay, tay trái cầm cổ áo, tay phải cầm lưng áo trèo lên nóc nhà gọi lớn tên của người chết 3 tiếng (hú hồn) rồi đem phủ lên thi thể.


CẦU NGUYỆN 
Khi có người chết, con cháu thường khóc lóc kêu gào thảm thiết, riêng các gia đình theo Phật vì sợ làm kinh động vong linh khó siêu thoát nên thường im lặng cầu nguyện và rước thầy về tụng kinh độ vong. 
Từ lúc này trở đi, con cháu trong nhà đều đi chân đất, không được: kình cãi, cười đùa, trang điểm, mang nữ trang... 


KHÂM LIỆM 
Là bọc xác người chết cho vào quan tài. 
Nhà giàu dùng vóc nhiễu tơ lụa, nhà nghèo dùng vải trắng, may thành đồ tiểu liệm, đại lịệm: 
Đồ tiểu liệm: dọc: 1 mảnh dài 5m; ngang: 3 mảnh dài 3m, ngang dọc (tung hoành) đều có xé đầu 3 mối.
Đồ đại liệm: dọc: 1 mảnh dài 5m; ngang: 5 mảnh dài 3m, không xé. 

May các thứ: Gối 1 tấm. Tịch thủ túc 2 tấm. Áp nhỉ 2 tấm. Phúc diện 1 tấm. Phúc trung yên 1 tấm. Tả hữu thốn túc 2 tấm. 1 bao hàm bằng bông. 
Cách liệm: Đem quan tài vào, đổ tro, vôi dày 1 tấc, để tấm thất tinh lên, rồi trải tấm khâm, xong rải 3 tấm ngang, 1 tấm dọc, (tiểu liệm) rồi tiếp 5 tấm ngang, 1 tấm dọc (đại liệm), để tấm tấn thủ trên đầu, tấm túc dưới chân, trải giấy thấm hoặc trà. Đúng giờ hoàng đạo, chủ tang vào cử ai đốt nhang cúng bái (có thầy lễ phụ trách). Những người khâm liệm đưa thi hài vào quan tài, dở khăn úp mặt cũ thay khăn mới, để bao hàm dưới cầm, để 2 tấm áp nhỉ 2 bên tai, để tấm phúc diện lên mặt, để tấm phúc trung từ ngực đến bụng, để 2 tấm tả hữu thốn túc. Khuyết chỗ nào lấy quần áo cũ chêm vào. Xong kéo tấm tung đại lên phủ từ đầu xuống chân, tiếp 5 đoạn hoành xếp ngay ngắn, rồi tiếp đồ tiểu liệm, tấm tung tiểu kéo lên từ trên đưa xuống, cột lại, rồi đến hoành tiểu buộc lại, xong trải tấm khâm. Đậy nắp quan tài, khoan chốt, hay đóng đinh, rồi đặt quan tài lên 2 con ngựa gỗ để an trí. 
Theo tục lệ, trong quan tài thường có miếng ván đục hình sao Bắc Đẩu thất tinh, hay dán bùa chú. Chết nhầm giờ xấu thì bỏ vào hòm 1 cổ bài tổ tôm, hay 1 quyển lịch Tàu, hay 1 tàu lá gồi để trấn áp ma quỷ. 
Quan tài đặt ở gian giữa nhà, hay gian cạnh, đầu quay ra sân (muốn để lâu thì quàn lại để trong nhà hay đem ra vườn phủ cát lên), trên nắp thắp 7 ngọn nến, lập bàn thờ đặt lư hương, 1 chén cơm úp, 1 đôi đũa, 1 trứng gà luộc bóc vỏ. Con cháu đứng thường trực bên linh cửu, để lạy đáp lễ khách phúng điếu. 
Mấy ngày mới nhập quan, con cháu còn được phép cưới gọi là cưới chạy tang. 

Tang Lễ Theo Sách Thọ Mai Gia Lễ phần 3(cuối) 

Vì sao có tục mũ gai đai chuối và chống gậy?
Tục đội mũ rơm quấn thật to quanh đầu, thắt lưng bằng dây gai, dây chuối ngày nay đã lỗi thời, nhiều nơi đã bãi bỏ, còn tục chống gậy chỉ áp dụng đối với con trai tang cha (gậy tre) tang mẹ (gậy vông),vẫn còn ở nhiều địa phương. 

Nguyên do: Đời xưa, đường đi lại còn hẹp, có khi còn phải leo núi cao, người mất được chôn cất ở nơi xa khu dân cư, trong rừng núi, có nơi chôn ở triền núi đá có nhiều hang động. Đã có trường hợp, người con vì quá thương xót cha mẹ, khóc lóc thảm thiết, đến nỗi không kể gì đến sinh mạng của mình, đập đầu vào vách đá, khi leo núi đi về vì thương cảm quá mất cả thăng bằng ngã lăn xuống vực. Để tránh tình trạng trùng tang thảm hại đó, người ta mới đặt ra lệ phải quấn quanh đầu những vật liệu mềm, xốp để nếu va vấp đỡ gây tổn thương và đặt ra lệ phải chống gậy để đi đứng an toàn hơn. Vật liệu dễ kiếm nhất, giàu nghèo ai cũng có thể tự liệu được và ở đâu cũng có thể kiếm được để làm chất đệm, đó là rơm, lá chuối, dây gai, dây đay. Xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của một số người, dần dần trở thành phong tục phổ biến. 

Vì ngày thường đi lao động ở đồng ruộng, núi rừng hoặc đi đứng đều mặc quần áo gọn bó vào người, đến khi có tang tế phải mặc áo dài rộng, dễ vướng gai góc nên phải có dây đai, tục đó cũng xuất xứ từ việc tránh nạn trùng tang.

Tại sao có tục kiêng không để cha mẹ đưa tang con?
Tử biệt sinh ly, ai không thương xót, nhưng theo quy luật tự nhiên, cha mẹ già yếu từ trần, con báo hiếu cha, mẹ, đưa tang bố mẹ là chuyện thường tình. Con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, nhiều trường hợp chết non, gây nhiều nỗi đau thương cho bố mẹ. Giờ phút hạ huyệt là giờ phút xúc động đến cực điểm, có nhiều ông bố bà mẹ đã bị ngất lịm đi. Đã có nhiều trường hợp mẹ chết luôn bên huyệt chôn con. Hơn nữa, ngày xưa, phương tiện và thuốc thang cấp cứu khó khăn, không cho cha mẹ đưa tang con để vơi bớt nỗi đau buồn và để tránh nạn trùng tang là đúng. Chẳng những cha mẹ mà các ông già bà cả trong nội thân, sức khoẻ đã tàn cũng không được dự đưa tang, sợ vướng đến sức khoẻ
Cha mẹ có để tang con không?
Tang phục là thể hiện tình nghĩa, có phân biệt thân sơ "Họ đương 3 tháng, láng giềng 3 ngày", thể hiện lòng thương xót giữa kẻ mất người còn. Vì thế, chẳng những thân thích mà người ngoài đến phúng viếng cũng nên đeo băng tang. Theo "Thọ mai gia lễ" thì chẳng những cha mẹ để tang con mà ông bà và cụ kỵ cũng để tang hàng cháu, hàng chắt. 

"Thọ mai gia lễ" quy định như vậy nhưng một số địa phương Bắc bộ quan niệm "Phụ bất bái tử" (cha không lạy con), Con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, là bất hiếu, con chưa kịp báo hiếu cha mẹ đã chốn nợ đời, chẳng những cha mẹ không để tang con mà khi khâm liệm con còn phải quấn trên đầu tử thi một vòng khăn trắng. Nếu là đàn bà mà tứ thân phụ mẫu còn cả thì phải quấn đến hai vòng, có nghĩa là ở dưới cõi âm cũng để tang báo hiếu sẵn cho cha mẹ đang ở trên dương trần.
Cư tang là gì?
Thời xưa, dẫu làm quan đến chức gì, theo phép nước, hễ cha mẹ mất đều phải về cư tang 3 năm trừ trường hợp đang bận việc quân nơi biên ải hay đi sứ nước ngoài. Lệ này không quy định đối với binh lính và nha lại. Nếu ai vì tham quyền cố vị, giấu diếm không tâu báo để về cư tang, bị đàn hặc vì tội bất hiếu, sẽ bị triều đình sử phạt biếm truất. Trong thời gian cư tang, lệnh vua không đến cửa. 

Ba năm cư tang là ba năm chịu đựng gian khổ, nhẫn nhục, không dự mọi cuộc vui, không dự lễ cưới, lễ mừng, không uống rượu (ngoài chén rượu cúng cha mẹ), không nghe nhạc vui, không ngủ với vợ hoặc nàng hầu, trừ trường hợp chưa có con trai để nối dõi tông đường, ngoài ra ai sinh con trong thời kỳ này cũng bị coi là bất hiếu. Không được mặc gấm vóc, nhung lụa, không đội mũ đi hia, thường đi chân không, cùng lắm chỉ đi guốc mộc hoặc giày cỏ. 

Dầu làm đến tể tướng trong triều, khi khách đến viếng cha mẹ mình, bất kể sang hay hèn cũng phải cung kính chào mời và lạy tạ (hai lạy hay ba vái dài). Khi ra đường, không sinh sự với bắt cứ người nào. ở trong nhà, đối với kể ăn người ở cũng không được to tiếng. 

Ba năm sầu muộn, tự nghiêm khắc với chính mình, rộng lượng với kẻ dưới, cung kính với khách bạn, để tỏ lòng thành kính với cha mẹ. 

Thời nay không còn lệ cư tang, nhất là các cán bộ chủ chốt càng không có điều kiện nghỉ việc thời gian dài, nhưng biết qua lệ cư tang của ông cha ta ngày xưa, hậu sinh có thể học được điều gì trong thái độ ứng xử?
Thanh Phong (Theo Phong tục Việt Nam 


Cải táng 

Theo"Thọ Mai gia lễ".Sáu mươi mốt ở cung Thân, sáu mươi hai ở cung Dậu, sáu mươi ba ở cung Tuất, sáu mươi tư ở cung Hợi, sáu mươi lăm ở cung Tý, sáu mươi sáu ở cung Sửu, (tuổi chết có tuổi nhập mộ). Sau cung Sửu, khởi tháng giêng ở cung Dần, tháng hai ở cung Mão, tháng ba ở cung Thìn... 




DÂNG HƯƠNG ĐÁM HIẾU 
 
Cách tính tuổi người chết có nhập mô, thiên di và trùng 

(năm, tháng, ngày, giờ) 

1. Phải biết người chết bao nhiêu tuổi. 

2. Năm, tháng, ngày, giờ người chết. 

3. Nam giới tính từ cung Dần xuôi theo chiều kim đồng hồ 

4. Nữ giới tính từ cung Thân ngược chiều kim đồng hồ đến cung Dậu 

Thí dụ: Khởi một mười (10) hai mươi (20) .v.v.. đến tuổi chết vào cùng nào dưới cung đó một cung khởi tháng giêng tính cho đến tháng chết, tính liền dưới cung chết này đến ngày chết. Dưới cung ngày chết tính liền đến cung giờ chết. 

Chẳng hạn người đàn ông chết vào giờ Dần, ngày mồng sáu tháng ba thọ 66 tuổi. 

Cách tính: Một mười khởi từ cung Dần 

Hai mươi ở cung Mão 

Ba mười ở vào cung Thìn 

Bốn mươi ở cung Tý 

Năm mươi ở cung Ngọ 

Sáu mươi ở cung Mùi 

Sáu mươi mốt ở cung Thân, sáu mươi hai ở cung Dậu, sáu mươi ba ở cung Tuất, sáu mươi tư ở cung Hợi, sáu mươi lăm ở cung Tý, sáu mươi sáu ở cung Sửu, (tuổi chết có tuổi nhập mộ). Sau cung Sửu, khởi tháng giêng ở cung Dần, tháng hai ở cung Mão, tháng ba ở cung Thìn, (tháng chết có một nhập mộ). Sau cung Thìn, khởi ngày mồng một ở cung Tỵ, mồng hai ở Ngọ, mồng ba ở Mùi, mồng bốn ở Thân, mồng năm ở Dậu, mồng Sáu ở Tuất (ngày chết có một nhập mộ) sau cung Tuất khởi giờ chết ở cung Hợi, Sửu ở cung Tý, Dần ở cung Sửu (giờ chết có một nhập mộ). Như vậy người chết là tận số. Con cháu hậu sinh sẽ làm ăn phát đạt, không còn lo lắng nhiều cho người chết nữa. 


Người xưa có câu: 

- Tý, Ngọ, Mão, Dậu thiên di (chuyển linh cữu khi đưa đám tang). 
- Thìn, Tuất, Sửu, Mùi vi nhập mộ người chết là tận số, con cháu hậu sinh làm ăn có tài lộc sau này. 
- Dần, Thân, Tỵ, Hợi thị trùng tang. Trong gia đình có người chết nên phòng tránh mọi điều xấu, rủi ro cho gia đình và nội tộc. 


VĂN KHẤN ĐÁM HIẾU 
(Khi nhà có đám hiếu cần đặt bàn thờ, hoặc khi chôn cất tế lễ thì dùng văn khấn này. Có thể đổi đi đôi câu chữ cho phù hợp). 
Na mMô A Di Đà Phật (3 lần) 

Kính lạy: 

- Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương 
- Đông trừ tư mệnh Táo Phủ thần quân 
- Chư Gia Tiên Cao tằng Tổ tỷ 
Hôm nay là ngày ..... tháng .... năm .......... 
Người thân của gia đình con là .................................................................... 

đã mất vào hồi ........ giờ ........ ngày ....... tháng ....... năm ...... 
Hỡi ôi ! 
Vùng đất rộng dường bao, bầu trời cao xa có mấy ? Cây cao ấy, gió cả ấy, nỗi sầu kia ai khéo đắp làm chi. Bờ cõi này, cảnh vật này, dấu cũ nọ bóng đi đâu chẳng thấy. Luống trông mấy đám bạch vân kia, phải đặt một linh sàng thờ cúng. Hương hoa lễ vật dâng lên, làm tròn đạo hiếu. 
Cúi xin hâm hưởng 
Cẩn cáo 

Cải táng (Cất mả) 

Hôm nào cất mả (thay áo quan) thì chủ nhân đến cáo nhà thờ từ hôm trước, lúc mở mả cũng phải làm lễ nhà thờ đã rồi lại ra đồng làm lễ thần linh mộ nữa rồi mới mở mả nhà giàu có cũng sắm đủ các đồ khâm liệm tế lễ như lúc người mới mất mà chôn. Nhà nghèo thì dảm tiện đi cất xong thì bày tuần lễ Ngu cho yên hồn phách. 

Kinh Thanh điều chép rằng: Mả có ô điền phải cần thay đi chỗ khác. 

1. Tự nhiên mả lở mòn hãm nát 
2. Thảo mộc vô cớ mà chết khô 
3. Trong nhà sanh dâm loạn, hiếm hoi, goá bụa 
4. Người nhà phát điên, phát ốm, tai vạ, cháy bại 
5. Người của hao tàn sinh thua kiện nhau 

Sách Dong hành biên phong thuỷ loại, chép rằng: Khi cất mộ thấy 3 điểm tốt ở huyệt thì đừng cất, lấp lại ngay: 


1. Thấy hình như con rồng hay rắn nằm bó trên thây 
2. Thấy như tơ hồng bó chặt quan tài 
3. Thấy nước dính như keo sữa ấm nóng hoặc có hơi bay như sa mù hay trong huyệt không có kiến mối nước gì mà khô ráo thì là những điềm hay điềm lành cả. 

Văn tế cải táng 

Than ôi, ba trăm sáu mươi nhăm ngày, thấm thoát tên hay không mấy chốc một năm mười hai tháng nhận được khi cải táng là ngày, nhớ công chín tháng hoài thai, ba năm bú mớm lễ thường kính dâng trước án, suối vàng rửa schj năm xương khô, nhân nay đã vẹn nấm mồ đất đỏ ngàn thu hồn khoái lạc, lòng thành lễ bạc rượu tế ba tuần, xin người phối hưởng soi xét lòng trần. 
Thượng hưởng. 


Cửu Tộc ngũ phục 
Như cao tổ phụ mẫu là ông bà sinh ra ông cụ để chở tề thôi năm tháng, nếu ông với cha mình đã mất rồi thì mình là người thừa trọng của cụ (tằng tổ thừa trọng) thì người cháu trưởng... 

Cửu tộc ngũ phục 

Họ hàng nội ngoại có 5 hạng chỗ sau này: 
1. Trảm thôi và tể thôi để chở ba năm 
2. Cơ niên để chở một năm 
3. Đại công để chở chín tháng 
4. Tiểu công để chở năm tháng 
5. Ty ma để chở ba tháng 
Phép chở cụ ngũ đại, cụ ông (Cao tổ, tằng tổ, tổ) 

Như cao tổ phụ mẫu là ông bà sinh ra ông cụ để chở tề thôi năm tháng, nếu ông với cha mình đã mất rồi thì mình là người thừa trọng của cụ (tằng tổ thừa trọng) thì người cháu trưởng phải chở trảm thôi ba năm.
Tằng tổ há thúc phụ mẫu, là ông bà cụ họ anh em ruột với ông cụ tằng để chở ba tháng. 
Tằng tổ cô là bà cụ họ chị em ruột với ông cụ tằng để chở ba thang, nếu tổ cô xuất giá rồi thì thôi. 
Tổ phụ mẫu là ông bà sinh ra cha, thì lề thôi một năm không có gậy, nếu cha mất rồi thì cháu đích tôn gọi là cháu thừa trọng phải để chở ba năm có gậy. 
Tổ bá thúc phụ mẫu là ông bác bà bác ông chú bà chú với bà cô, là anh em ruột với ông đều chở năm tháng, nếu bà cô đã xuất giá thì chỉ chở ba tháng thôi. 
Tổ bá thúc phụ mẫu với tộc tổ cô là ông bà họ anh em con chú con bác với ông ấy cũng đều chở ba tháng, nếu tộc tổ cô đã xuất giá rồi thì thôi. 

Chở cha mẹ 
Cha mẹ sinh ra mình đều phải chở ba năm, chở cha thì mặc áo vén gấu (chảm thôi) chống gậy tre, chở mẹ thì mặc áo sổ gấu, như thường (tề thôi) chống gậy vông nếu cha mất trước rồi khi mẹ chết thì cũng sổ gấu cả gậy cứ thế. ... 

Chở cha mẹ 
Cha mẹ sinh ra mình đều phải chở ba năm, chở cha thì mặc áo vén gấu (chảm thôi) chống gậy tre, chở mẹ thì mặc áo sổ gấu, như thường (tề thôi) chống gậy vông nếu cha mất trước rồi khi mẹ chết thì cũng sổ gấu cả gậy cứ thế. 
Đồng cư kế phu (cha ghẻ) là như đương ở cùng thì chở một năm, nếu trước có ở với, sau về không ở nữa thì chở ba tháng, nếu không theo ở với ngày nào là bất đồng cư kế phụ, thì không phải chở. 
Tòng kế mẫu gia - phụ là cha mất rồi kế mẫu lại lấy chồng khách, mình có theo mẹ đi ở với cha ấy, thì chở cha ấy một năm. Nếu không theo ở với ngày nào thì không phải chở (vô phục). 
Đích mẫu, kế mẫu, dưỡng mẫu thì chở tề thôi hoặc trảm thôi cũng đều ba năm, nếu kế mẫu bị cha dãy bỏ thì cũng vô phục. 
Từ mẫu là mẹ đẻ ra đã mất, mình còn nhỏ cha lại khiến mê thiếp khác nuôi lấy con, ấy gọi là từ mẫu thì chở tề thôi hay trảm thôi, ba năm, nếu cha không khiến mình chỉ có ở chung thôi, thì chở năm tháng. 
Giá mẫu, xuất - mẫu là mẹ sinh ra hoặc bị cha mẹ mất hay cha bỏ (dẫy) lại đi lấy chồng khác, hai mẹ ấy với thứ mẫu đều phải để trở một năm. 
Vợ lẽ hay nàng hầu cha thì chở có 3 tháng thôi. 
Nhũ - mẫu là vú nuôi sữa cho bú cũng để chở ba tháng. 
Thứ tử phục sinh mẫu là con vợ lẽ của cha đẻ ra, khi người mẹ sinh mất thì phải chở lề thôi ba năm. 
Bá thúc phụ mẫu với cô là bác giai bác gái cùng chú thím với cô là anh em chị em ruột với cha đều chở một năm, nếu cô đã xuất giá rồi thì giáng xuống chín tháng. 
Đường bá thúc phụ mẫu với đường cô, là bác giai bác gái chú thím họ với cô họ là anh em chị em ruột với cha đều chở năm tháng, nếu cô đã xuất giá rồi thì để chở ba tháng mà thôi. 
Lộc bá thúc phụ mẫu với cô, bác giai bác gái chú thím họ với cô họ là anh em chị em cháu chú cháu bác với cha đều chở ba tháng, cô xuất giá thì thôi 
Phép chở ngang hàng (cùng vai) 
Vợ (thê) mất chồng thì để chở một năm có chống gậy tiến cha mẹ còn cả thì đừng chống gậy. Thiếp là nàng hầu, có con hay không có cũng chở ba tháng. Huynh, đệ, tỉ, muội là anh em chị em ruột đều chở nhau 1 năm ... 

Phép chở ngang hàng (cùng vai) 
            Vợ (thê) mất chồng thì để chở một năm có chống gậy tiến cha mẹ còn cả thì đừng chống gậy. 

Thiếp là nàng hầu, có con hay không có cũng chở ba tháng. 
Huynh, đệ, tỉ, muội là anh em chị em ruột đều chở nhau 1 năm, chị dâu em dâu chở 9 tháng chị em gái đã xuất giá bị chồng chết hay chồng bỏ phải chở về, con lại không có thì trở 1 năm. 

Đường huynh, đệ, tỉ, muội là anh em chị em con chú con bác đều chở 9 tháng các vợ anh em ấy chỉ chở có 3 tháng thôi, nếu chị em ấy xuất giá thì chở 5 tháng. 

Tái lòng huynh đệ tỉ muội là anh em chị em họ, bốn đời thì chở nhau 3 tháng, chị dâu em dâu ấy chở có 3 tháng nếu chị em ấy đã xuất giá thì cũng chở 3 tháng thôi. 

Tộc huynh đệ tỉ muội là anh em chị em họ năm đời chở nhau 3 tháng, vợ anh em ấy với chị em ấy xuất giá thì đều cô phục cả. 

Huynh đệ tỉ muội, là anh em chị em cùng mẹ khác cha chở nhau năm tháng, vợ người anh ấy không phải chở con người anh ấy mình không phải chở. 


Chở hàng con 
Chở con trưởng với các con thứ đều một năm cả, nhưng không phải gậy, chở nàng dâu thì chỉ có nàng dâu cả là 1 năm còn các dâu thứ chỉ chở 9 tháng, nếu dâu con có đi làm con nuôi nhà người ta thì cũng chở thế. ... 

Chở hàng con 
Chở con trưởng với các con thứ đều một năm cả, nhưng không phải gậy, chở nàng dâu thì chỉ có nàng dâu cả là 1 năm còn các dâu thứ chỉ chở 9 tháng, nếu dâu con có đi làm con nuôi nhà người ta thì cũng chở thế. 
Con gái cũng chở 1 năm, xuất giá rồi thì chở 9 tháng như xuất giá hoặc bị chồng giẫy hay chồng mất lại không có con phải về nhà mình thì cũng phải để chở 1 năm. 
Còn con thì chỉ chở có 3 tháng thôi. 
Điệt nam là cháu giai họ con anh em, thì chở 1 năm, vợ cháu ấy chở 9 tháng, dâu cháu nào có đi làm con nuôi thì cũng chở 9 tháng vợ thì 5 tháng. 
Cháu gái cũng chở 1 năm, đã xuất giá chỉ chở 9 tháng thôi. 
Đường điệt nam nữ là cháu mà bác chú, đều chở nhau 5 tháng, đường điệt nữ xuất giá thì chở 3 tháng thoi. 
Tái tòng điệt nam nữ là con giai con gái nhập tái cùng huynh đệ ấy là chắt, ông tổ bá thúc thì chở 3 tháng, vợ tái tòng điệt nam với tái tòng điệt nữ đã xuất giá thì vô phục. 

Phép chở hàng cháu 
Cháu gia đích tôn thì chở 1 năm vợ đích tôn chở 5 tháng. Chung tôn nam nữ đều chở 9 tháng, vợ chung tôn nam thì chở 3 tháng, cháu gái xuất gia thì chở 5 tháng. ... 

Phép chở hàng cháu 
Cháu gia đích tôn thì chở 1 năm vợ đích tôn chở 5 tháng. 
Chung tôn nam nữ đều chở 9 tháng, vợ chung tôn nam thì chở 3 tháng, cháu gái xuất gia thì chở 5 tháng. 
Điệt tôn nam nữ là cháu nhà anh em thì chở 5 tháng vợ nó với điệt nữ xuất giá thì chở 3 tháng. 
Đường điệt tôn nam nữ là cháu nhà anh em thì chở 3 tháng, vợ nó với nữ đường điệt đã xuất giá thì vô phục. 

Phép chở cháu tằng tôn 
Tằng tôn nam nữ bởi cháu sinh ra chở nó 3 tháng vợ nó với cháu gái tằng tôn xuất giá rồi vô phục. ... 

Phép chở cháu tằng tôn 
Tằng tôn nam nữ bởi cháu sinh ra chở nó 3 tháng vợ nó với cháu gái tằng tôn xuất giá rồi vô phục. 

Phép chở cháu huyền tôn 
Huyền tôn nam nữ là cháu bốn đời (gọi là chú) vợ nó với huyền tôn nữ xuất giá rồi cũng vô phục.... 

Phép chở cháu huyền tôn 
            Huyền tôn nam nữ là cháu bốn đời (gọi là chú) vợ nó với huyền tôn nữ xuất giá rồi cũng vô phục. 


  Các Tin khác
  + Chân dung 2 giáo sư Việt được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới (06/12/2024)
  + Gia đình danh giá bậc nhất Việt Nam: Con cháu thừa hưởng "mã gen tài năng" (02/12/2024)
  + 7 điều tuyệt diệu khiến bạn luôn tự hào khi nhắc đến hai tiếng Việt Nam (11/08/2024)
  + Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/07/2024)
  + Ai là người đặt tên đất nước ta là Việt Nam: Ý nghĩa là gì? (30/06/2024)
  + Hình ảnh thiêng liêng lễ diễu binh ở Thị trấn Trường Sa (08/06/2024)
  + Trường Sa luôn đặc biệt từ những điều nhỏ nhất (26/05/2024)
  + Thế trận Đường Trường Sơn góp phần làm nên thắng lợi Chiến dịch mùa Xuân 1975 (18/05/2024)
  + 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/05/2024)
  + Khám phá 22 hang động kỳ vĩ mới được phát hiện tại Quảng Bình (19/04/2024)
  + 18 đời vua Hùng gồm những ai? Tên gọi chính xác của các vị vua là gì? (17/04/2024)
  + Ảnh ấn tượng về các lực lượng tham gia diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (05/04/2024)
  + 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ Đại tướng Phan Văn Giang: Vũ khí cá nhân mới của quân đội tốt hơn AK47 (05/04/2024)
  + Chiêm ngưỡng sắc đỏ của cây hoa gạo trăm tuổi "đẹp nhất" Ninh Bình (03/04/2024)
  + Hoa gạo rực đỏ bên ngôi chùa cổ kính nghìn năm tuổi ở Hà Nội (23/03/2024)
  + Những bông hoa y tế vùng cao và chuyện băng rừng trong đêm đi đỡ đẻ (06/03/2024)
  + Kỷ niệm 80 ngày thành lập QĐNDVN: Sẽ tổ chức Triển lãm Quốc phòng quốc tế và mít tinh cấp Nhà nước (26/01/2024)
  + MŨI NÉ VÀO TOP ĐIỂM BAY KHINH KHÍ CẦU ĐẸP NHẤT THẾ GIỚI (02/04/2023)
  + Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: (12/03/2023)
  + Hàng nghìn người khai hội gò Đống Đa xuân Quý Mão (26/01/2023)
Playlist

GIỚI THIỆU
QUẢNG CÁO
Thống kê
Guests online: 3
Total: 66024812

 
 
 
Người xứ nghệ Kiev
Designed by July