* Hỏi: Tôi có quốc tịch Hoa Kỳ, đã về Việt Nam sinh sống từ ngày 1/1/2009 liên tục đến nay (cứ 3 tháng 1 lần tôi xin gia hạn tạm trú). Tháng 5/2014, tôi nộp đơn xin thường trú, sau khi hồ sơ đầy đủ, Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Khánh Hòa cấp cho tôi một biên nhận, trong đó hẹn đến nhận kết quả vào ngày 07/11/2014. Đến ngày hẹn, tôi đến nhận kết quả thì nhân viên công an bảo tôi phải đợi giấy mời nhận thì mới đến...
Tôi đã chờ vài tháng cũng không thấy gọi nên chủ động đến hỏi thì họ trả lời là công an có đến nơi tôi cư trú trước khi tôi rời Việt Nam (tôi rời VN ngày 29/4/75, đến Thái Lan rồi sang Mỹ) hỏi thì không ai biết tôi từng ở nhà này. Khi tôi chạy khỏi VN thì nhà tôi bị chính quyền mới tịch thu và cấp cho người khác ở đến bây giờ. Họ không biết tôi là ai. Tôi lục giấy tờ còn sót lại thì có một biên lai đóng thuế đất cho số nhà 172/13 Bạch Đằng, Nha Trang, nhưng có lẽ người ở sau này kỵ con số 13 nên họ đổi lại là 172/11 Bạch Đằng, Nha Trang, kèm theo tờ khai là những người hàng xóm đã dời đi nơi khác hoặc bạn bè lớn tuổi đã chết hết (năm nay tôi 80 tuổi). Công an họ bảo sẽ gửi chứng minh này đến giới chức thẩm quyền xem xét, chứ ở đây không có thẩm quyền. Nhưng tôi chờ đến đến hôm nay vẫn chưa thấy có giấy gọi. Xin nói thêm là trong thời gian ở VN tôi có kết hôn với người vợ tên là Bui Thi Non, giấy kết hôn tại Phòng Tư pháp tỉnh Khánh Hòa ngày 6/1/2014.
Xin hỏi trường hợp của tôi bây giờ phải làm sao? Xin chỉ dẫn giúp tôi.
* Trả lời:
Hiện nay, để bác được đăng ký thường trú tại Việt Nam với tư cách là người có quốc tịch Việt Nam hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài, là vấn đề rất khó khăn do bác không có tài liệu, giấy tờ để chứng minh mình thuộc một trong các đối tượng này. Do vậy, việc đăng ký thường trú tại Việt Nam của bác có thể được thực hiện theo quy định tại Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014. Theo đó, Các trường hợp được xét cho người nước ngoài thường trú được quy định tại Điều 39 gồm:
+ Người nước ngoài có công lao, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam được nhà nước Việt Nam tặng huân chương hoặc danh hiệu vinh dự nhà nước.
+ Người nước ngoài là nhà khoa học, chuyên gia đang tạm trú tại Việt Nam.
+ Người nước ngoài được cha, mẹ, vợ, chồng, con là công dân Việt Nam đang thường trú tại Việt Nam bảo lãnh.
+ Người không quốc tịch đã tạm trú liên tục tại Việt Nam từ năm 2000 trở về trước.
Đồng thời, Điều 40 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 cũng quy định: Đối với các trường hợp được xét cho thường trú quy định tại Điều 39 nêu trên sẽ phải đáp ứng điều kiện như sau:
+ Có chỗ ở hợp pháp và có thu nhập ổn định bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
+ Người nước ngoài là nhà khoa học, chuyên gia đang tạm trú tại Việt Nam phải được Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý nhà nước về lĩnh vực chuyên môn của người đó đề nghị.
+ Người nước ngoài được cha, mẹ, vợ, chồng, con là công dân Việt Nam đang thường trú tại Việt Nam bảo lãnh phải tạm trú tại Việt Nam liên tục từ 03 năm trở lên.
Từ những quy định nêu trên cho thấy bác có thể được đăng ký thường trú tại Việt Nam bởi bác đã kết hôn với vợ là công dân Việt Nam và vợ bác đang thường trú tại Việt Nam (được Phòng Tư pháp tỉnh Khánh Hòa cấp giấy đăng ký kết hôn). Đồng thời bác cũng đã tạm trú tại Việt Nam từ năm 2009 đến nay, nghĩa là đã đủ điều kiện trên 3 năm tạm trú tại Việt Nam và điều này cũng đồng nghĩa với việc bác có chỗ ở hợp pháp tại Việt Nam. Như vậy, bác chỉ cần chứng minh là có thu nhập ổn định bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam và bác được vợ bác bảo lãnh cho thường trú tại Việt Nam. Khi có đầy đủ những điều kiện này, bác sẽ được làm thủ tục đăng ký thường trú tại Việt Nam.
Công ty Luật TNHH Bảo Chính
Phòng 308, Tòa nhà số 8 Láng Hạ,
phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội
Nguồn quehuongonline.vn
http://quehuongonline.vn/hoi-dap/lam-the-nao-de-duoc-thuong-tru-tai-viet-nam-20150821174139964.htm
|