VIDEO - Thơ tháng 7 VIDEO - Thơ tháng 7 , Người xứ Nghệ Kiev
Thơ tháng 7
Nguồn: Đài Truyền hình Hải Phòng
Đăng tải : Hồ Sỹ Trúc
BBT Nguoixunghekiev.vn hân hạnhgiới thiệu cùng độc giả
Nhà thơ Nguyễn Thanh Tuyên
Bút danh: Thanh Phương – Thanh Tú.
Nghề nghiệp: Bác sỹ.
Hội viên Hội Nhà văn Hải Phòng.
Đã xuất bản:
- Hoa muống biển (Thơ in chung) - NXB Hải Phòng-1996
- Người miệt biển (Thơ in chung) - NXB Hải Phòng-1997
- Tiếng vọng (Thơ) - NXB Hải Phòng-2003
- Có thơ trong các tuyển tập “Thơ Nam Định thế kỷ XX”, “Văn học Hải Phòng qua các giải thưởng”, “Nửa thế kỷ thơ” (Tạp chí Văn nghệ Quân đội)…
- Đã đăng thơ trên các báo, Tạp chí Trung ương và Địa phương.
Giải thưởng Văn học:
- Giải Nhì về thơ, cuộc thi sáng tác Văn học về đề tài Môi trường tại Hải Phòng năm 2002.
- Giải Tư, cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ Quân Đội, 2 năm 2002-2003.
- Giải Ba, cuộc thi thơ Tạp chí Cửa Biển – Hải Phòng năm 2005
- Giải Ba, cuộc thi thơ đề tài Nông nghiệp, do Trung tâm xúc tiến Thương mại NN VN và Câu lạc bộ thơ VN tổ chức 2009.
VIẾT VỀ NHÀ THƠ NGUYỄN THANH TUYÊN:
THƠ NGUYỄN THANH TUYÊN
Bão Vũ
Nhà thơ Nguyễn Thanh Tuyên, hội viên Hội Nhà văn Hải Phòng còn là một bác sĩ nội khoa. Dường như anh ngại được gọi là nhà thơ nên thường chỉ dùng học vị của mình dưới các bài thơ - “Bs Nguyễn Thanh Tuyên”, thậm chí có lúc, như chiếu lệ, anh còn để cho in cả bức ảnh chân dung của mình mặc áo blu trắng, cổ đeo ống nghe. Cái học vị bác sĩ ấy bây giờ không quá hiếm hoi như thời xưa nên rõ ràng là anh không có ý trưng diện gì, mà chỉ là cách để người ta thể tất cho sự “mạo phạm” của mình khi lấn lướt sang địa hạt thi ca cao siêu.
Nhưng trên tất cả, nhiều bài thơ của Nguyễn Thanh Tuyên xác định anh là người từng tham gia cuộc chiến tranh chống Mỹ khốc liệt. Điều này in đậm trong những vần thơ da diết của anh như những vết thương chưa yên lành trên bao vùng đất bom đạn hằn dấu. Và chính điều đó khiến anh có những cảm xúc chân thực trong thơ.
Bây giờ, người đọc thơ dù dễ tính cũng rất khó khăn để có thể tìm ra được một bài, thậm chí chỉ một câu đáng giá giữa bạt ngàn thơ, trong số hàng ngàn tập thơ xuất bản mỗi năm. Vì rằng, dù chỉ một câu thơ thực sự là thơ cũng chẳng thể dễ dàng xuất hiện trong xô bồ hỗn độn, giả dối và trống rỗng. Không ít nhà thơ chuyên nghiệp đã phải tìm đến những kỹ xảo tân kỳ, hoặc phải cầu cứu đến kỹ thuật để thay thế cho cảm xúc chai mòn. Người thì loay hoay giữa các khuynh hướng, trào lưu thơ đến độ hoang mang vô hướng; đã khiến cho Thơ như một thứ biến hình trùng không còn có thể xác định được dung mạo hình thể nữa. Đó là một hiện thực không mong muốn – một tình trạng bi đát mà người ta buộc phải thừa nhận. Và do vậy những nhà thơ còn coi thơ như “Thi đạo” đã không muốn xưng mình là thi sĩ, vì cảm thấy như có lỗi.
Những rung động chân thành từ cõi sâu xa trong tâm hồn khiến người làm thơ có thể viết ra những câu thơ đẹp. Nguyễn Thanh Tuyên không hề lạm dụng kỹ thuật, thậm chí anh tỏ ra như mình không cần đến kỹ thuật. Nhưng anh biết chưng cất, nung luyện những “Thi khoáng” một cách tự nhiên không khiên cưỡng, để câu thơ óng ánh xuất hiện như kết quả tất yếu của cuộc luyện kim thuần thục. Trong một bài thơ kể về việc đi tìm mộ người bạn lính, từ việc những người lính thường vẫn làm khi mai táng đồng đội tử trận của mình, Nguyễn Thanh Tuyên đã bộc phát một ý thơ mới mẻ, viết nên những câu thơ nghẹn ngào:
Ta đào bới nét chữ mình thời trẻ
Trong vỏ kháng sinh chôn theo bạn cuối đồi
Làn hương mỏng bồi hồi gọi hộ
Sao chữ mình mà bạn mãi không “Ơi!...”
(Tìm lại chữ mình)
Nguyễn Thanh Tuyên hồi tưởng lại tuổi thanh xuân sôi nổi của mình khi trở lại chiến trường nơi đã từng cùng sống chết với bao bạn đồng ngũ:
Cỏ khâu vá kín đường mòn
Tiếng chân rậm rịch bạn còn quanh đây
Ngực sâu ủ lửa than gầy
Bạc đầu ngược dốc tìm ngày thanh xuân
(Lối xưa)
Câu cuối của khổ thơ trên, tài tình như lối chơi chữ trong cổ thi “Bạc đầu đi tìm tuổi xanh”, mà sâu xa, gợi đến câu thơ của Nguyễn Du: “Vãng sự bi thanh trủng/ Tân thu đáo bạch đầu”. Chuyện đã qua đau lòng như nấm mồ xanh / Mới sang thu mà đầu đã bạc (Thu chí). Một thành công rất tự nhiên từ cảm xúc chân thật.
Nguyễn Thanh Tuyên có cách biểu hiện nỗi hoài niệm đớn đau với người bạn lính đang nằm dưới cỏ, lời thổ lộ thân thiết mà buồn nghẹn như tiếng khóc:
Sao không thể chuyện trò qua“di động”
Hay tâm tình qua những email...
Cách đồng đội ước chừng ba tấc đất
Mà xa xăm thăm thẳm vạn độ dài...
(Viếng bạn)
Nguyễn Thanh Tuyên cũng như những người đã trải qua lửa đạn chiến trường, hiểu cái giá của đất đai chính là máu đỏ trào ra từ những trái tim liệt sĩ. Nhưng rồi lúc này đất đai là những thỏi kim loại vàng lạnh ngắt, vô cảm, vô tình và còn đồng nghĩa với sự vô lương tâm nữa.
Từng tấc đất băm vằm muôn mảnh đạn
Trộn đất nâu thấm đẫm máu đào
Họng súng giặc thét gào không mặc cả
Thấm thía giờ đất sốt đến nôn nao…
Và đất hát khúc bi ca về những kiếp người nhỏ mọn sống hối hả bon chen cho đến lúc sẽ phải bỏ lại tất cả bao thứ phù phiếm để trở về với đất:
Bia đời… chạy chức mua danh
Tầng sâu cũng cỡ tiểu sành ấy thôi
Phù du chi thế cõi người ?
Có nghe đất hát những lời cỏ sương …
(Lời cỏ lời sương)
Dành tình cảm cho những người trở về , anh thương binh trong thơ Nguyễn Thanh Tuyên vẫn tần tảo kiếm sống và chẳng hề nguôi nỗi nhớ tới đồng đội trên dải Trường Sơn :
Ngẩn ngơ sóng gợn mây vần
Nao nao vân gỗ, bần thần dáng cây
Đoạn này, lựa chạm chim bay
Cành vương tỉa lá rễ gày suối tuôn
Khúc cong chọn tạc sườn non
Hươu ngơ ngác thuở lối mòn từng qua
.......
Xa rồi rách áo đói cơm
Khói tan xót bạn Trường Sơn không về
.......
Ngày ngày vân gỗ thơm hương
Hoà vào làn gió mười phương thổi về…
(Vân gỗ)
Thơ tình của Nguyễn Thanh Tuyên cũng buồn, lãng đãng buồn, nhưng cũng rất riêng:
Mai em về phía sum vầy
Hương vườn quả mọng đơm dày tíếng chim
Đêm trường ở phía lặng im
Lô xô con chữ mải tìm đến nhau...
(Gạo lứt)
Như đã nói, Nguyễn Thanh Tuyên không chủ tâm cầu viện đến kỹ thuật khi làm thơ, nhưng anh vẫn có những thành công đáng kể trong sử dụng từ ngữ.
Líu ríu xanh
Cỏ mật lịm chân người
....
Môi phượng nở
Đương dậy thì từng góc nhỏ phố quen…
(Chớm dậy thì)
Thơ Nguyễn Thanh Tuyên giàu hình ảnh tuy không phải là những khám phá mới mẻ nhưng lại rất gợi cảm, có sức lay động:
Như ảo ảnh
Hiện khung trời thơ bé
Ao cũ
Chiều xưa
Bói cá chợt bay về.
(Ao cũ)
Buông neo Bờ sạt Văng vẳng “ Đò ơi ?” Khoảng không không thưa
Chen chúc nhớ đầy
(Trở lại bến xưa)
Nguyễn Thanh Tuyên lặng lẽ và cần mẫn trong thơ. Có những câu thơ hay chợt đến trên đường, anh ghi lại trong điện thoại di động để sau này thành bài thơ. Nhưng có khi những câu thơ ấy loé sáng rồi tắt lịm đâu đó trong những công việc bề bộn hàng ngày của một bác sĩ. Tôi từng đọc một bài thơ khá hay của Nguyễn Thanh Tuyên viết về một người thương binh hỏng mắt làm nghề bán sáo trúc kiếm ăn. Đêm đêm trong khuya khoắt tĩnh mịch, anh thương binh trở về cùng tiếng sáo như một thứ thực phẩm ế ẩm mà người bán hàng đành phải đem tự dùng (“thay cơm”). Bài thơ ấy không nằm ở tập thơ đã xuất bản của anh, vì nó đã bị thất lạc đâu đó, mà anh thì không muốn làm lại bài thơ như cách đem một cảm hứng cũ ra chế tác lại thành một bài thơ khác. Đó là sự chân thành với thơ, như với tình yêu thực sự.
Nguyễn Thanh Tuyên làm thơ không nhiều và không phải bài thơ nào anh viết ra cũng được như ý, nhưng anh biết trân trọng thi ca, rung động với thơ một cách chân thực và đã có những câu thơ mà cả đến người làm thơ thành thục cũng mong muốn được ký tên dưới những câu thơ ấy. Người ta không thấy anh quá mê mải chăm chút cho danh tiếng của mình, hay quảng bá ồn ào cho thơ mình. Chỉ chừng đó, ta có thể không ngần ngại khi gọi anh là Nhà Thơ.
(Nhà văn Bão Vũ)
PHẨM BÌNH VỀ THƠ NGUYỄN THANH TUYÊN:
Chừng mực, cẩn trọng, không quá khích cực đoan, Nguyễn Thanh Tuyên tìm thơ trong ấm lạnh hằng thường ở những nỗi niềm dung dị mà không kém phân tế vi nơi tâm trạng và công phu trong hình thức biểu đạt.Tiếp xúc với anh, ta không phải e dè đề phòng sự ranh ma quỉ quái. Tiếp cận với thơ anh, ta gặp sự hồn nhiên tở mở để rồi chân thành sẻ chia cùng những tâm tư, tình cảnh (phải chăng sau những tâm sự thơ, vấn đề đặt ra là một tâm thế sống?)
Ừ thì sự đổi mới cần quyết liệt táo tợn, nhưng không phải vì thế mà chấp nhận cả những méo mó dị hợm trong ý tứ để thơ không còn là thơ nữa. Thơ đi tìm sự đồng cảm đồng điệu chứ không quá chuộng lạ để lạc vào nẻo thơ vô tình, vô cảm. Chắc là Nguyễn Thanh Tuyên thường dặn mình như vậy, nên thơ anh không thuần túy là chuyện văn chương. Anh muốn giữa thơ và đời sống có mối quan hệ ấm nóng, gần gũi. Và, như thế lại trở về cái vấn đề muôn thuở của văn chương, ấy là trách nhiệm công dân của người cầm bút.
(TẠP CHÍ CỬA BIỂN – SỐ XUÂN CANH DẦN – 2010)
Trân trọng cảm ơn Đài truyền hình Hải Phòng, cảm ơn nhà thơ Nguyễn Thanh Tuyên đã cung cấp cho chúng tôi những thông tin vô cùng giá trị. Kính chúc Quý vị cùng độc giả báo Nguoixunghekiev. vn sức khoẻ, hạnh phúc và thành công!