Sau ngày đất nước thống nhất, nhận thấy có một số tay bút nghiệp dư đang rải rác ở các đơn vị trong toàn quân, viết chưa nhiều song đó là những anh em có tâm huyết, dày vốn sống đời lính cần phải tập trung lại bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ, tạo điều kiện để họ trở thành những người viết chuyên nghiệp phục vụ quân đội, lãnh đạo Tổng cục Chính trị mà cơ quan tham mưu là tạp chí Văn nghệ Quân đội đã triệu tập hơn 20 cán bộ cấp úy về Hà Nội dự trại viết và chuẩn bị vào học lớp viết văn Nguyễn Du (Khóa I) do Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) tổ chức.
Cuối năm 1976 đầu 1977, hơn 20 anh em đã có mặt tại khu nhà mới được dựng lên bên bờ sông Tô Lịch, thuộc làng Trung Hòa (nay là phường) quận Cầu Giấy. Hữu Thỉnh về từ binh chủng Tăng thiết giáp, Xuân Đức từ Trị Thiên – Huế, Đào Thắng, Tô Đức Chiêu, Nguyễn Trọng Tạo từ Quân khu 4, Đình Kính, Trần Đăng Khoa từ Hải quân, Thao Trường (Nguyễn Khắc Trường), Dương Duy Ngữ từ Phòng không – Không quân, Phạm Hoa, Xuân Mai, Trần Nhương từ Tổng cục Hậu cần, Thái Vượng, Nguyễn Ngọc Mộc, Lê Văn Vọng từ Quân khu 7, Phùng Khắc Bắc từ Quân đoàn 4, Khuất Quang Thụy từ Quân đoàn 3, Chu Lai từ Đặc công, Nguyễn Quan Tính từ Quân đoàn 2. Về sau cùng là Nguyễn Trí Huân, Thái Bá Lợi, Trung Trung Đỉnh từ Quân khu 5.
Trong hơn 20 người đa số có quân hàm trung úy, số ít là thiếu úy, chuẩn úy. Có người khi về trại đã là nhà thơ, nhà văn, được bạn đọc chú ý như Trần Đăng Khoa, Hữu Thỉnh, Xuân Đức, Thao Trường, Nguyễn Trí Huân… riêng Trần Đăng Khoa sau đó đi học ở Học viện Gorki (Nga).
Được hoàn thành trong điều kiện gấp gáp để đón các cây bút, ngôi nhà bên sông Tô Lịch được dựng khá đơn giản, mái lá tường đơn, các phòng ngăn cách nhau bằng bức vách. Hai người ở một phòng chừng 16m2, có bàn viết riêng. Từ các đơn vị tập trung về, toàn là người viết, anh em dễ dàng hòa nhập, thoải mái vui vẻ như đã quen nhau từ lâu. Các “trại viên” thuộc diện quản lý của Đội 10 Đoàn 871 Bộ Quốc phòng, mà trực tiếp là 2 ông: Thiếu tá đội trưởng Nguyễn Văn Nhuận và Đại úy đội phó Trần Văn Lợi. Chăm lo việc ăn uống cho hơn 20 người viết là các cô bộ đội nghĩa vụ “mỏng mày hay hạt” của vùng quê lụa Hà Tây: Duyên, Nga, Ninh… Nói là “quản lý” các nhà văn, song từ ông đội trưởng, trợ lý chính trị đến các em phục vụ cũng chỉ biết mỗi tên Trần Đăng Khoa mà thôi.
Trong thời gian chờ quyết định mở lớp của Bộ Văn hóa, Tổng cục Chính trị cho anh em ngồi viết, ai có sở trường thế mạnh cái gì thì viết cái đó. Tiểu thuyết, truyện ngắn, trường ca, thơ… Tạp chí Văn nghệ Quân đội được giao trực tiếp quản lý trại về chuyên môn. Để trang bị cho anh em những kiến thức cơ bản về lý luận sáng tác văn học, một số giáo sư, nhà phê bình nghiên cứu văn học được mời tới nói chuyện. Phan Cư Đệ nói về tiểu thuyết, vấn đề và con người, Hoàng Ngọc Hiến nói về nhận thức luận, Hà Minh Đức nói về thơ…
Hàng tuần, các anh ở tạp chí Văn nghệ Quân đội cũng tranh thủ xuống trao đổi kinh nghiệm sáng tác. Nói trao đổi cho có vẻ quan trọng chứ thực chất các anh kể chuyện bản thân trong việc khai thác, sử dụng tài liệu, huy động vốn sống, xây dựng cốt truyện, nhân vật… Rồi cả những khó khăn thường gặp trong quá trình viết một tác phẩm. Là những người đi trước có bề dày kinh nghiệm sáng tác, các anh coi chúng tôi như em, không giấu nghề, luôn động viên, ai viết được gì các anh đọc, góp ý chân tình thấu đáo. Vốn sống các cậu có rồi, điều kiện sáng tác tuy chưa được tốt lắm, nhưng thuận lợi nhiều. Đây là lúc tằm rút ruột nhả tơ, hãy cố gắng mà viết, viết ngắn viết dài lượng sức mình, đừng tự ti mà phải tự tin. Có tự tin mới viết được… Cuối những buổi nói chuyện các anh thường dặn vậy.
Mới là những người chập chững vào nghề, viết chưa nhiều, thành công còn khiêm tốn, hoài bão ước mơ thì có song khả năng hạn chế, chúng tôi đều cảm thấy lo lo trước tình cảm cũng như sự tin cậy của các anh.
Thực ra những buổi nói chuyện của các giáo sư, nhà văn đã làm vỡ vạc trong anh em chúng tôi nhiều điều thú vị về nghề văn. Nó thổi bùng lên ngọn lửa đam mê vẫn âm ỉ cháy trong mỗi con người. Đọc tác phẩm của các anh rồi, giờ lại được “mục sở thị”, được nghe các anh nói chuyện “bếp núc” nghề văn thì đúng là không ngờ. Những tên tuổi như Vũ Cao, Nguyễn Minh Châu, Hồ Phương, Nguyễn Khải, Xuân Thiều, Nguyễn Trọng Oánh, Hải Hồ, Nguyên Ngọc, Xuân Sách, Hữu Mai… là những tấm gương cho anh em mới viết như chúng tôi phấn đấu. Trong quân đội các anh là những “nhà văn đại tá”, với nền văn học nước nhà, các anh là những nhà văn lớn. Đóng góp của các anh cho văn học cách mạng không nhỏ, song sự giản dị ân cần trong giao tiếp xua tan đi sự tự ti ban đầu ở mỗi chúng tôi.
Đến với chúng tôi lúc đó còn có cả các anh các chị ở Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, những con người vẫn được ví như “bà đỡ” cho những đứa con tinh thần. Trưởng phòng biên tập văn nghệ Đỗ Gia Hựu, các biên tập viên Vũ Sắc, Tạ Hữu Yên, Vũ Thị Hồng. Mỗi người một phong thái, khả năng song tất cả đều chung mục đích vì những tác phẩm của lớp nhà văn trung úy.
So với số anh em về trại lúc đó, Trung úy Hữu Thỉnh là người nổi danh khá sớm, dĩ nhiên là sau “thần đồng” thơ Trần Đăng Khoa. Anh có bài thơ “Năm anh em trên một chiếc xe tăng” nhạc sỹ Doãn Nho phổ nhạc được rất nhiều người biết. Hầu như buổi phát thanh Quân đội nào cũng phát bài hát đó. Rồi chương trình tiếng thơ của Đài tiếng nói Việt Nam cũng ngâm một số bài thơ khác của anh, đám “lính mới” chúng tôi rất nể. Có lẽ vì cái “uy tín” trong nghề và sự nghiêm cẩn ngoài đời mà anh được cấp trên chỉ định làm Bí thư Chi bộ, cùng với Đại úy Mai Thế Chính, cán bộ Cục Tuyên huấn Tổng cục Chính trị trại trưởng, Chu Lai phó trại. Trừ những khi đi đến các báo, tạp chí gửi bài hoặc các nhà xuất bản làm việc, hàng ngày các trại viên đóng cửa phòng ngồi viết. Người viết nhanh, kẻ viết chậm. Có anh “lia” tới mười mấy trang bản thảo tiểu thuyết một buổi sáng như Chu Lai, Khuất Quang Thụy. Không ai bảo ai nhưng như có một cuộc nỗ lực sáng tác âm thầm diễn ra.
Một thời gian khu nhà bên sông Tô Lịch trở thành địa chỉ lui tới của dân văn chương Hà Thành. Người đến đặt bài cho báo, cho đài, người bảo viết cho nhà xuất bản, lại có không ít người chỉ đến chơi và bù khú. Để “thoát khỏi” không khí ồn ào đó, lãnh đạo Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã tổ chức cho toàn trại đi “nằm vùng” một tháng ở Đà Lạt. Khu an dưỡng của cán bộ cao cấp quân đội ở Đà Lạt rất rộng. Những ngôi biệt thự nằm rải rác khắp sườn đồi, sương mù lãng đãng, suốt ngày vi vút thông reo. Điều kiện ăn ở, làm việc tại đây khá tốt, mọi người tranh thủ “cày”. Kết thúc thời gian nhiều bản thảo được hoàn thành. Khuất Quang Thụy có tiểu thuyết “Trong cơn gió lốc”, Chu Lai có tiểu thuyết “Nắng đồng bằng”, Hữu Thỉnh có trường ca “Đường tới thành phố”… Những bản thảo này sau đều được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản.
Sau nhiều nỗ lực cố gắng của cơ quan chức năng nhất là lãnh đạo Tạp chí Văn nghệ Quân đội, các nhà văn trung úy đã có nơi dừng chân chính thức để chuẩn bị bước vào học (khóa I lớp viết văn Nguyễn Du). Đó là dãy nhà nhiều phòng tường xây, lợp ngói khang trang ở chung khu đất với Xưởng họa Quân đội (Vân Hồ 3). Hai người một phòng 16m2 ngăn đôi nửa trong nửa ngoài. Lúc này, Đại úy Mai Thế Chính đã trở về Cục Tuyên huấn, Hữu Thỉnh là lớp trưởng kiêm Bí thư Chi bộ, hai lớp phó là Chu Lai và Thái Vượng. Năm 1979 từ Quân khu 5 Thái Bá Lợi, Nguyễn Trí Huân, Trung Trung Đỉnh đã ra nhập lớp. Trong ba lô mỗi người đem theo vài ba bản thảo. Sau đó Nhà xuất bản Quân đội nhân dân in. Nguyễn Trí Huân có tiểu thuyết “Năm 1975 họ sống như thế”, Thái Bá Lợi có tiểu thuyết “Thung lũng thử thách”, “Họ cùng thời với những ai”… Trung Trung Đỉnh có các tập truyện: “Thung lũng đá hoa”, “Người trong cuộc”…
Lớp học có trên 40 học viên hội tụ từ khắp các tỉnh thành trong cả nước, riêng quân đội có 20 người. Giữa các kỳ học, trường tổ chức cho anh em đi thực tế sáng tác. Thời gian này, những sáng tác của các nhà văn trung úy thường xuyên xuất hiện trên báo chí, đài phát thanh. Một số người đã xuất bản các tập tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, trường ca…
Ở Vân Hồ được ít lâu thì bếp ăn tập thể giải tán vì không có người phục vụ. Quản lý chỉ lo cấp gạo, thực phẩm, quân trang, còn việc tem phiếu, thực phẩm cơm nước, các nhà văn tự lo. Bây giờ ngoài đến lớp, sáng tác… các nhà văn trung úy có thêm công việc: đi chợ. Tới giờ nổi lửa là cả chục cái bếp dầu cùng phun khói. Mấy chục năm sau tôi vẫn chưa quên được hình ảnh nhà văn Phạm Đình Trọng chân đi guốc mộc, soi mắt qua cặp kính cận dầy cộp dùng cái nhíp nhổ râu gắp từng hạt thóc trong cái rá gạo nhỏ xíu trước khi đem vo, mặc nồi nước sắp sôi. Tôi cũng nhớ như in cái tấm lưng dài, dầy chắc như tấm ván lim của nhà văn Tô Đức Chiêu khi anh ngồi xúc từng thìa cơm trộn thức ăn trong cái xoong nhôm méo móp ăn ngon lành. Anh Chiêu có thói quen thích ăn cơm trong nồi. Có lẽ là để không phải rửa bát.
Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra. Một lần nữa, các nhà văn trung úy lại ra trận. Nhiều bút ký, phóng sự, bài thơ được viết đăng tải kịp thời trên báo chí vạch trần sự tàn bạo của quân đội đối phương và ca ngợi những gương chiến đấu dũng cảm bảo vệ cuộc sống của đồng bào ta ở các vùng đất địa đầu Tổ quốc.
Ở trại Vân Hồ có ba người thường cặp kè với nhau: Thái Bá Lợi, Trung Trung Đỉnh và Phạm Hoa. Bộ ba này chơi với nhau rất thân. Đi học, đi chơi và cả đi công việc riêng họ đều cùng đi. Cứ thấy Thái Bá Lợi ở đâu là chắc chắn có Đỉnh và Hoa ở đấy. Thái Bá Lợi cao gầy, chiếc xe đạp chỉ cao tới háng anh, khi anh đạp xe cứ như hai chân bơi dưới đường. Hồi này anh đã nổi tiếng với truyện ngắn “Hai người trở lại trung đoàn” và đang viết tiểu thuyết. Một mình Phạm Hoa ở trong căn phòng nhỏ cuối dãy ấy, cạnh đó là Thái Bá Lợi và Trung Trung Đỉnh. Tầm chiều sau khi ăn cơm, Phạm Hoa thường “bách bộ” dọc hè. Với đôi dép nhựa bộ đội cắt quai hậu, anh lê “quẹt quẹt” từ đầu này tới đầu kia, không vào phòng ai, dù đâu đó anh em vẫn đang chuyện trò bù khú. Đoạn, trở về phòng ngồi rít thuốc lào. Phạm Hoa vốn là lính vận tải cơ giới Trường Sơn. Những truyện ngắn anh viết đều lấy bối cảnh con đường huyền thoại đó với những con người ra trận: bộ đội, thanh niên xung phong đầy vẻ lạc quan yêu đời.
Sau bốn năm học tập, năm 1982, các nhà văn trung úy được trang bị thêm nhiều kiến thức bổ ích cho công việc sáng tác. Lứa nhà văn này kịp thời được bổ sung cho các cơ quan văn học nghệ thuật của Quân đội như Tạp chí Văn nghệ, Điện ảnh, Nhà xuất bản… Họ đã làm tốt vai trò là những người kế tục sự nghiệp sáng tác văn học của lớp nhà văn đàn anh trong kháng chiến chống Pháp. Không chỉ riêng trong Quân đội mà họ còn đóng góp thiết thực cho nền văn học nước nhà. Hàng trăm đầu sách ra đời, phần lớn viết về người lính và chiến tranh cách mạng, nhiều tác phẩm của họ đã chiếm được chỗ đứng trong lòng người đọc, nhận giải thưởng cao. Nhiều người đã, đang nắm giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt, quan trọng của Hội Nhà văn hoặc các cơ quan báo chí, nhà xuất bản của Hội.
Lớp nhà văn trung úy ngày nào giờ đã ngoài tuổi lục tuần, song sức sáng tạo vẫn còn sung mãn. Chợt nghĩ nếu ngày đó cấp trên không có kế hoạch “thu gom” bồi dưỡng nghiệp vụ thì liệu bây giờ có được một thế hệ nhà văn áo lính, đã và đang đóng góp cho nền văn học nước nhà những tác phẩm có giá trị? Chắc là không! Thế mới thấy tầm nhìn của người lãnh đạo quan trọng thế nào.
L.V.V
Theo Tạp chí Văn nghệ Quân đội