Trang chủ Liên hệ       Thứ hai, Ngày 25/11/2024
 
 
THÔNG TIN
Giới Thiệu Hội
Trang Thể Thao
Sức khỏe & Đời sống
Ẩm thực Nghệ Tĩnh
Việt Nam Đất Nước Con Người
Khoa học & Môi Trường
Chuyện lạ đó đây
Nhịp cầu Nhân ái
DANH SÁCH TẤM LÒNG VÀNG
Tin tức Nghệ Tĩnh
Truyền thống Nghệ Tĩnh
Tâm sự cuộc sống
Văn hóa - Xã hội
Văn Nghệ
  -  Văn Thơ Sưu Tầm
  -  Sáng Tác Cộng Đồng
  -  Văn thơ của bạn
Thư Viện
Góc Cười
Tin Trong nước -Tin Quốc Tế -Tin Ucraina
Tin Cộng Đồng
Người Việt Trên Thế Giới
BÀI DỰ THI VỀ XỨ NGHỆ
QUẢNG CÁO

 
Trang chủ > Văn Nghệ >
  Tin Văn nghệ: Tiểu thuyết “Dòng sông mang lửa” của Hồ Sỹ Hậu Tin Văn nghệ: Tiểu thuyết “Dòng sông mang lửa” của Hồ Sỹ Hậu , Người xứ Nghệ Kiev
 

 

VanVN.Net - “Trong nhiều con đường Trường Sơn thì đường ống xăng dầu được ví như một kì tích, một bản anh hùng ca bi tráng. Cho đến hôm nay, sau nhiều chục năm chiến tranh, con đường của lửa và máu này vẫn là niềm kiêu hãnh của Việt Nam và là điều khó hiểu của giới nghiên cứu quân sự Mỹ. Tập tiểu thuyết tư liệu Dòng sông mang lửa của Hồ Sỹ Hậu phần nào lí giải được những bí ẩn đó. Với các vỉa tầng hiện thực đan xen nhau, những góc khuất đa chiều, có sự tương phản mạnh mẽ giữa cái đẹp và cái xấu, hình ảnh con đường lửa - một hiện tượng độc đáo của cuộc kháng chiến chống Mỹ - đã hiện lên sinh động trong cuốn sách” - nhà văn Phạm Hoa. VanVN.Net xin trân trọng giới thiệu hai chương trích từ cuốn tiểu thuyết tư liệu của Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu.

Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu

Tác giả, Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu sinh năm 1946. Quê quán: xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Tốt nghiệp Đại học Mỏ địa chất, đại học Kinh tế quốc dân. Nhập ngũ tháng 4/1968. Trong chiến tranh chống Mỹ là kỹ sư khảo sát thiết kế tuyến đường ống xăng dầu Trường Sơn. Sau chiến tranh công tác ở cơ quan Bộ Quốc phòng. Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu nguyên là Cục trưởng Cục Kinh tế/ Bộ Quốc phòng.

 

 

Bìa tiểu thuyết Dòng sông mang lửa

Chương 1

XĂNG VÀ MÁU

 

Chiếc xe Gaz-69 chở đoàn Phái viên Tổng cục Hậu cần bắt đầu thể hiện khả năng dã chiến của nó từ trọng điểm Truông Bồn. Dưới ánh đèn dù sáng rực, lũ máy bay đã phát hiện ra mấy chiếc xe tải đang ở đầu bắc trọng điểm. Chúng gầm rít, bổ nhào, và những loạt bom bắt đầu rung chuyển. Chiếc Gaz-69 đã đi được hai phần ba trọng điểm, cách mấy chiếc xe kia tới hơn cây số, nó chồm qua những hố bom bi đan nhau thành lưới ổ gà, những hố bom phá được lấp vội, lái xe phải cài cầu, tăng hết ga mới vọt lên được. Cậu lái xe là người có kinh nghiệm nên thường chọn giờ vượt trọng điểm khá chính xác. Nhờ vậy, xe của họ đã vượt trót lọt qua một số trọng điểm. Tuy nhiên đến Ngã ba Đồng Lộc, được thông báo phải mất hai đêm mới có thể thông đường, Thục đành đi bộ theo đường giao liên, và tranh thủ đi nhờ các xe tải chạy từng đoạn. Phải mất bốn ngày, từ Hà Nội, anh mới vào đến QH. 

QH là một hang đá nằm giữa khu rừng già cây cao vút. Dưới tán rừng này, có thể giấu nhiều xe mà địch không thể phát hiện. Nền hang khá bằng phẳng. Hang sâu hàng trăm mét, rộng đến mức xe vận tải có thể vào được. Chiều cao của hang có chỗ tới gần chục mét. Trong điều kiện máy bay Mỹ đánh phá ác liệt, thì có một hang đá như thế này quả là lý tưởng để làm nhiều việc. Một Đại đội kỹ thuật đang gấp rút hàn bể chứa xăng lớn trong hang. Trong hang, suốt ngày vang tiếng búa và tiếng máy hàn. Những tiếng động ấy cứ đập qua đập lại thành hang nghe đến chói tai. Vậy mà mấy cậu lính xe, công binh vẫn ngủ say như chết. Suốt đêm làm việc căng thẳng trên tuyến đường, đây là nơi họ có thể vô tư thả mình vào giấc ngủ. Những nơi an toàn như thế này, lính thường gọi là "ấm gáo".

 

Ngả lưng sau mấy ngày đi đường vất vả, Thục vẫn nhớ như in lúc nhận nhiệm vụ lên đường. Buổi sáng, Cục trưởng gọi anh lên: "Cần đi Khu Bốn gấp. Chủ nhiệm bảo đây là một việc hệ trọng, cần một sĩ quan trẻ, xông xáo đốc chiến, cậu cử ai thì lên cùng họp luôn để tôi trực tiếp giao nhiệm vụ". Lần đầu tiên Thục được trực tiếp gặp Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện, và có dịp ngắm kỹ ông: Dáng người cao lớn, nước da trắng đã hơi sạm, chắc vì công việc đè nặng lên ông. Gương mặt to, xương xương với đôi mắt luôn nhìn thẳng, cương nghị, quyết đoán. Nhìn đôi mắt ấy, Thục hiểu rằng ông không bao giờ chấp nhận lối làm việc qua loa, vô trách nhiệm. Cuộc họp sáng hôm ấy thực sự căng thẳng khi Bộ Tham mưu Tổng cục báo cáo tình hình đánh phá của địch trên các tuyến đường Khu Bốn, đặc biệt là sự bế tắc trong việc vận tải xăng dầu. Chủ nhiệm Tổng cục lắng nghe các ý kiến, các đề xuất để đối phó với địch trên các tuyến vận tải chiến lược, và ra các chỉ thị. Cuối cuộc họp, ông hỏi:

- Vận chuyển xăng cho mặt trận vẫn là việc khó nhất, tốn nhiều xương máu nhất. Trước mắt, bằng mọi giá phải chuyển được xăng vào cho Đoàn 559. Tổng cục quyết định cử một số sĩ quan đi các hướng đốc chiến. Ngành Xăng dầu cử đồng chí nào vào Quảng Bình?

Cục trưởng đứng lên:

- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi cử đồng chí Hà Đức Thục.

Thục đứng nghiêm:

- Báo cáo, có tôi.

Là một sĩ quan cấp úy đứng trước một người nổi danh như Đinh Đức Thiện, Thục không khỏi hồi hộp. Chủ nhiệm nhìn anh vài giây rồi gật đầu:

- Trông bản lĩnh đấy. Tôi hỏi: Cậu có hiểu được mức độ khó khăn, ác liệt của công việc này không?

Thục đứng nghiêm:

- Báo cáo, tôi hiểu, tôi hứa hoàn thành nhiệm vụ.

- Thế là ổn rồi - Chủ nhiệm ôn tồn - Tôi sẽ trực tiếp ký giấy giới thiệu cho cậu đến các binh trạm. Trong công việc, cậu sẽ cùng bàn với đơn vị, và phải thường xuyên trực tiếp báo cáo về Tổng cục. Không phải tôi không tin ở các binh trạm, nhưng trước tình hình vận chuyển xăng dầu lên phía trước thế này, tôi muốn đồng chí như con mắt của Tổng cục ở những nơi khó khăn nhất.

Ra khỏi phòng họp, Cục trưởng vỗ vai Thục:

- Cậu thành nhân vật quan trọng rồi đấy. Nhưng nhớ rằng cậu sẽ phải đến những điểm nóng nhất. Ở đó, thương vong diễn ra hàng ngày.

Không phải vì lời động viên của Cục trưởng, mà bằng việc Chủ nhiệm Tổng cục trực tiếp giao nhiệm vụ, Thục đã thấy rõ trách nhiệm của mình hết sức nặng nề.

Thục vươn vai sau một giấc ngủ vùi bù lại mấy ngày đi đường vất vả. Trước cửa hang, vòm lá xanh mát mắt, có vài hố bom, mà sao anh cảm thấy nơi đây thanh bình lạ. Dòng suối trong vắt chảy từ hang ra. Tiếng chim hót trên vách đá, một chú sóc chuyền cành, tiếng ac-mô-ni-ca của một cậu lính lái xe từ trong ca bin vọng lại. Kỹ sư Vĩnh, Đội trưởng Đội thi công bể hàn chỉ cho Thục mấy hố bom, và dặn:

-  Không có việc thì ông nên hạn chế ra ngoài, vì đôi khi theo vết bánh xe, máy bay địch vẫn ném bom vào đây thăm dò.

Thục hỏi:

- Sao tôi thấy quang cảnh thanh bình quá?

- Cũng phải có lúc yên tĩnh cho chúng mình thở chứ. Chờ Trưởng ban xăng dầu Binh trạm đến đưa chúng mình đi, ông sẽ hiểu thế nào là đất lửa Quảng Bình.

Thiêng thật, vừa nhắc đến thì Trưởng Ban Xăng dầu Binh trạm 112 xuất hiện. Theo hiệp đồng, hôm nay anh phải đến QH để cùng Vĩnh và phái viên Tổng cục Hậu cần đi nghiên cứu thực địa, tìm phương án chuyển xăng cho Đoàn 559. Dáng người cao gầy, nhanh nhẹn, người sĩ quan bắt tay Thục rất chặt, giọng miền Nam trầm ấm:

-  Tôi là Thành, Trưởng ban Xăng dầu Binh trạm 112. Anh vào đúng lúc quá. Suốt cả tháng nay Binh trạm trưởng Nguyễn Điền lúc nào cũng như ngồi trên đống lửa. Trong 559 điện ra thúc giục, Bộ và Tổng cục liên tục đôn đốc. Tuyến ống của chúng tôi thì đã buộc phải dừng vận hành hai tuần nay rồi.

Ở Tổng cục, Thục đã nghe nói tới tuyến dẫn xăng độc đáo của Binh trạm 112 nên anh cũng nóng lòng muốn tận mắt xem tuyến ống này ra sao. Tuy nhiên anh vẫn hỏi:

- Sao lại dừng vận hành tuyến ống?

- Cứ đi thực địa ta sẽ rõ - Thành thân mật nắm tay Thục.

Ba người đi theo lối mòn được tạo thành bởi hai vệt bánh ô tô, tới một khu đất bằng phẳng dưới tán cây rậm rạp. Đây chính là điểm đầu của tuyến ống. Một bể xăng chôn ngầm, một chiếc máy bơm đặt trong hầm có mái che. Một lán nhỏ chứa phụ kiện, là chỗ ở của thợ vận hành. Mấy cái hầm chữ A chắc chắn và đoạn giao thông hào thoát hiểm. Vĩnh chỉ mấy nóc nhà thấp thoáng sau nương ngô và nói:

- Đó là xóm Hung. Chúng ta phải đưa xăng vượt qua ngọn núi kia để sang xóm Trứng.

Thành sôi nổi kể:

- Anh Thục biết không, cách đây hai tháng, khi 559 điện gấp đòi xăng, đường ô tô địch chặn ác liệt quá, trời mưa, trận bom nọ nối trận bom kia làm đất đá bị xới tung lên thành một lớp bùn nhão nhóet kéo dài suốt ba cây số trọng điểm. Cả sức người và sức máy ủi đều không thể khắc phục được. Mấy ông công binh thử dùng phương pháp nổ mìn vi sai xem có thể hất được lớp bùn đi không. Sau loạt nổ thứ hai, khối bùn tung lên trời rồi lại rơi bẹt trở lại mặt đường. Gần một tháng trời không có xe nào qua được trọng điểm. Trước tình đó, Tổng cục đã cử đội của anh Vĩnh vào phối hợp giúp đỡ Binh trạm. Các anh ấy thực sự là cứu tinh của chúng tôi đấy.

- Trưởng ban quá lời rồi - Vĩnh cắt ngang - Bọn tôi có kỹ thuật, có thiết bị thì phải làm được một cái gì đó cho Binh trạm chứ. Chỉ ngặt nỗi năng lực chúng tôi cũng hạn chế nên ta phải dừng lại giữa chừng - Rồi Vĩnh hăng hái thuyết minh tác phẩm của mình - Trước khó khăn của Binh trạm, chúng tôi điểm lại toàn bộ vật tư, thiết bị, thấy có thể làm được đường ống vượt qua ngọn núi này. Chúng tôi tìm tất cả mọi thứ ống có trong Binh trạm, có trong kho của mình, và dùng tôn hai ly hàn thành tuyến ống này.

Ba người leo theo dọc tuyến ống. Phía bên này dốc là đoạn chịu áp lực bơm nên tất cả đều dùng ống thép hàn. Để đề phòng bị địch đánh, cứ vài chục mét lại có một hầm trú ẩn. Quá lưng chừng dốc là một cái kho trung chuyển nhỏ gồm mấy cái phuy hai trăm lít nối với nhau bằng hệ thống ống và van. Một cái máy bơm nhỏ đặt trong hầm. Vĩnh giải thích:

- Máy bơm ở chân dốc có thể không bơm được qua núi, thêm nữa, ống hàn do chúng tôi chế tạo không có điều kiện thử áp suất nên phải có trạm bơm trung chuyển này.

Đỉnh núi là một kho trung chuyển gồm hai bể cao su, tổng sức chứa bốn nghìn lít. Những bể chứa này do bộ đội khiêng lên. Từ đây, xăng tự chảy xuống chân dốc.

Thục đang thích thú xem những chiếc bể cao su đặt trong hầm, thì bỗng có tiếng rít qua đầu và tiếng bom nổ rất gần. Theo phản xạ, cả ba nhảy xuống mấy cái hầm gần đó. Vĩnh nhìn về phía đám khói bom đang bốc lên, lo lắng:

- Chúng ném bom tọa độ vào khu vưc cửa hang của mình rồi. Không biết có ai việc gì không. Hy vọng không xẩy ra chuyện gì, vì giờ này anh em thường đang ngủ trong hang.

Sang bên kia đỉnh núi, Thục nhận ra đây mới thực là tuyến ống theo kiểu chiến trường. Mọi thứ ống: Ống cao su, ống nhựa, ống tôn, ống chân nhà bạt, ống phóng rốc két của Mỹ..., tóm lại là mọi thứ được gọi là ống. Chỗ nối giữa chúng nếu không phải là khớp nối kỹ thuật thì được quấn bằng xăm ô tô. Vì tính chất phức tạp của tuyến như vậy nên cứ mấy chục mét độ cao lại có một phuy hai trăm lít để điều chỉnh áp suất. Đoạn dốc năm mươi mét cuối cùng thì không còn kiếm đâu ra mét ống nào nữa, nên ống được nối tiếp bằng những cây lồ ô đục thủng các mắt. Vĩnh giải thích:

- Đây thực sự là bất đắc dĩ. Trong cuộc họp hiến kế, tôi đề xuất biện pháp này và được Binh trạm ủng hộ ngay. Đương nhiên sức chịu áp của loại ống này rất kém nên các phuy trung chuyển phải bố trí dày hơn. Ngày vận hành đầu tiên sau khi khắc phục xong mấy sự cố kỹ thuật thì xăng bơm qua núi một cách khá trôi chảy. Binh trạm trưởng ôm lấy tôi nói rất cảm động: "Cậu đã cứu bọn tớ một bàn thua trông thấy". Tuy nhiên chỉ vài ngày sau thì đủ thứ khó khăn phát tác: Xăm ô tô ở các chỗ nối ống không chịu được xăng nên xăng rò chảy nhiều. Ống lồ ô cũng không chịu được xăng nên ngấm nhiều, và chúng nhanh chóng bị tóp lại. Anh em khắc phục sự cố vất vả đã đành, nhưng điều đáng nói là xăng tổn thất dọc tuyến ngày càng lớn. Cả khu rừng mùi xăng nồng nặc. Trong điều kiện này, chỉ một quả bom bi rơi vào tuyến thì tổn thất khó mà lường hết được. Chúng tôi đã cầm cự vận hành được hai tháng qua, số xăng chuyển đi cho 559 được tổng cộng một trăm năm mươi tấn, nhưng xăng tổn thất cũng khá lớn.

Thành xen vào:

- Một trăm năm mươi tấn xăng tương đương với năm mươi xe chở xăng vượt trọng điểm. Điều ấy quan trọng lắm. Tuy nhiên giờ thấy chân xăng còn ít quá nên Binh trạm phải quyết định cho ngừng vận hành, nghĩ cách khác sao cho xăng có thể chuyển qua trọng điểm mà tổn thất ít nhất.

Thục tần ngần nhìn đoạn tuyến bằng những cây lồ ô. Chắc đây là đoạn tuyến ống dẫn xăng độc nhất vô nhị trên thế giới sử dụng loại vật liệu này. Hẳn là những cây lồ ô liên tục được thay mới nên bên cạnh tuyến còn những thân cây teo tóp. Anh khâm phục tinh thần dám nghĩ, dám làm của những người lính trong điều kiện vô cùng khó khăn. Và anh cũng hình dung ra nỗi gian truân của những người lính vận hành, khắc phục sự cố trên đoạn tuyến độc đáo này.

Thành cắt ngang trầm tư củaThục:

-  Giờ chúng ta ra đường ô tô xem có nghĩ ra cách gì khác chuyển xăng qua trọng điểm được không - Anh chỉ một con đường mòn - Đây là đường tốt nhất để đi ra trọng điểm 468.

Từ sáng đến giờ, phía trọng điểm 468, tiếng bom liên tục ì ầm vọng lại. Đến đỉnh dốc, chỗ lối mòn đổ xuống đường ô tô, Thành dừng lại bên một cái hầm chữ A đào sẵn:

- Ta nghỉ ăn trưa đã. Theo quy luật thì trận bom sáng cuối cùng đánh vào trọng điểm là khoảng mười một giờ.

Thục ngạc nhiên:

- Quy luật ổn định vậy sao?

- Ổn định thì không thật ổn định, nhưng trong khoảng dăm ngày thì tạm yên tâm. Nắm được quy luật, công binh và Thanh niên xung phong mới giảm được thương vong trên mặt đường đấy.

Ba người chưa ăn hết nắm cơm thì một loạt bom mới lại bắt đầu nổ. Nơi đây rất gần trọng điểm nên mọi người phải xuống hầm. Tiếng máy bay gầm rít, những loạt bom phá, bom bi, rốc két nối nhau. Ngồi trong hầm đã cảm thấy chói tai và cảm nhận được mặt đất rung chuyển. Khoảng mười lăm phút thì trận oanh tạc chấm dứt. Thành đưa bi đông nước mời hai người uống rồi thong thả:

- Chừng vài chục phút yên tĩnh nữa là đi được. Chúng ta sẽ có khoảng gần hai tiếng tạm yên tâm để đi qua trọng điểm. Bắt đầu từ đây, phải rất chú ý nghe ngóng động tĩnh từ trên không, nhưng điều trước hết, phải thận trọng quan sát mặt đường xem sáng nay chúng nó có rải bom lá, bom tai hồng, hay bom vướng nổ không. Nếu có thì phải trở về, chờ công binh dọn dẹp đã.

Thục khâm phục sự dày dạn của Thành. Anh ta nói chuyện đạn bom như ngồi đánh cờ. Người ở hậu phương nghe đến bom đạn ở đất lửa Quảng Bình thì luôn cảm thấy căng thẳng. Vậy mà ở đây, con người lại bình tĩnh lạ. Bất giác anh nhớ đến một câu thơ của Phạm Tiến Duật: Giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ.

Nhô ra khỏi đám cây xanh cuối cùng trên triền núi, Thục quan sát được toàn cảnh trọng điểm 468. Đã qua một số trọng điểm, nhưng toàn đi ban đêm nên Thục không hình dung hết. Đã tưởng tượng, mà anh không khỏi ngỡ ngàng. Không biết các thế hệ sau có thể hiểu hết những nơi gọi là trọng điểm giao thông thời chống Mỹ như thế này không. Gọi là trọng điểm 468 vì cây số 468 là trung tâm trọng điểm. Trọng điểm dài tới hơn ba cây số. Đoạn tuyến đi qua cây số 468 một bên là núi cao, sườn dốc nên ta luy đường rất cao và dễ sạt lở, một bên là vực sâu. Nếu xe ra đến giữa đường mà đường tắc thì chỉ có cách đứng im làm mồi cho máy bay địch. Qua cây số 468 một đoạn, là ngã ba khe Ve. Nơi đây một hướng là đường 15 đi tiếp vào Nam, một hướng rẽ phải theo đường 12 lên đèo Mụ Giạ, biên giới Việt Lào, vào tuyến 559. Ngã ba đường ấy cũng nằm giữa triền núi hiểm trở, lại phải qua một con suối lớn nên nó trở thành hiểm địa, nơi máy bay địch tập trung ngăn chặn. Ngày nối ngày, máy bay địch dùng đủ mọi thủ đoạn đánh phá: Rải thảm, tọa độ, bổ nhào theo đợt, tập kích bất ngờ. Bom đạn cũng đủ kiểu: Bom phá phá nát từng đoạn đường, cầu. Nếu bom rơi lên ta luy thì mỗi trái bom có thể hất hàng trăm mét khối đất đá xuống mặt đường. Bom từ trường sẵn sàng kích nổ khi có phương tiện sắt thép đi qua. Bom nổ chậm rình rập, có thể nổ bất cứ lúc nào. Bom cháy để đốt rừng, đốt xe. Bom bi để sát thương những người trên mặt đất. Bom lá, bom tai hồng rải khắp trọng điểm, ai không may dẫm phải thì cụt chân. Rồi bom vướng nổ. Thứ bom tai ác này có khi làm tê liệt trọng điểm mấy ngày liền vì phá chúng phải rất thận trọng. Những sợi dây chết chóc mong manh như tóc lẫn trong cành khô, cát bụi khiến cho các chiến sĩ công binh phá gỡ cũng khó tránh được thương vong, rồi rốc két, đạn hai mươi ly... Hàng chục thứ bom đạn ấy nối nhau cày nát trọng điểm khiến cho suốt đoạn đường hơn ba cây số, chiều rộng ngót một cây số không còn sinh vật nào tồn tại. Những thân cây rừng đại ngàn qua hàng trăm trận bom đã bị băm vụn thành dăm. Trên trọng điểm, có khi vẫn còn vài cây lớn. Chúng đã chết, mảnh bom găm đầy mình, nhưng đứng trơ trơ vươn những cành khô đã bị chặt cụt lên trời lầm lỳ chịu đựng. Đất đá trọng điểm ngày nào cũng bị đào xuống, hất lên, bị nghiền nát, nung cháy, đã chuyển sang một màu đen xám. Một nơi như vậy thì khó có thể xe nào qua lọt. Vậy mà về mùa khô, đường bị đánh tắc, lại nhanh chóng thông xe. Đi trên trọng điểm, Thục mới hiểu hết thế nào là sức sống của người Việt Nam.

Đang là mùa mưa nên trọng điểm lầy lội. Thành đi đầu, với kinh nghiệm dày dạn, anh quan sát rất thận trọng, và nói hai từ gọn lỏn: "Đi được!". Ba người đi lựa theo địa hình, nhưng nhiều chỗ bùn vẫn ngập đến đầu gối. Thành nhắc mọi người phải luôn quan sát những chiếc hầm trú ẩn dọc đường phòng khi bị đánh bất ngờ. Cứ vài chục mét lại có một chiếc hầm như vậy. Hầm không thật kiên cố, nhưng vô cùng quan trọng cho các chiến sĩ công binh, thanh niên xung phong làm việc trên trọng điểm, cũng như cho cánh lái xe khi không may xe kẹt giữa làn bom. Thục bỗng cảm thấy gai người khi đọc những khẩu hiệu viết trên những mảnh hòm bộc phá cắm dọc trọng điểm: "Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm""Máu ta ta quý hơn vàng, nhưng vì Tổ quốc sẵn sàng hiến dâng"...

Sau hơn một giờ đồng hồ thì họ đi hết đoạn ác liệt nhất của trọng điểm. Tách khỏi đường ô tô vài trăm mét, họ đi qua mấy ngôi mộ mới. Thành dừng lại, bẻ nhành lá rừng thay hoa đặt lên từng ngôi mộ. Thục và Vĩnh lẳng lặng làm theo. Thục đọc những tấm bia bằng gỗ cắm trên mộ. Họ đều mười tám, mười chín tuổi. Sau phút mặc niệm, Thành giải thích:

- Mấy cậu này hy sinh hai hôm trước. Họ bị bom bi khi đang làm việc trên mặt đường. Lính mới vào, còn trẻ lắm.

Về gần đến hang QH, ba người đều cảm thấy có gì bất ổn. Đất đá rơi kín lối đi. Chỉ đi thêm đoạn ngắn là thấy ngay mấy hố bom lớn trước cửa hang. Bom đã xé toang tán rừng săng lẻ. Những cây săng lẻ bị phạt ngang tướp táp. Vĩnh thảng thốt: "Trời ơi, anh em có sao không đây?". Anh nhảy qua những hòn đá chắn ngang, chui qua những thân cây đổ, lao vào hang. Từ trong hang có tiếng reo: "Anh Vĩnh về rồi". Chính trị viên lao ra, ôm lấy Vĩnh:

- Chúng nó đánh hai loạt tọa độ. Bọn mình cứ sợ các ông bị dính. Thế này là yên tâm rồi.

Vĩnh hỏi:

- Anh em mình có sao không?

- Đơn vị mình thì không sao, nhưng ba trong số bốn cậu lái xe mới vào hôm qua hy sinh rồi. Các cậu ấy đang kiểm tra kỹ thuật xe thì bị bom đánh trúng. Bọn mình đã chôn cất tử sĩ. Cả tổ còn mình cậu bé kia thôi, thật tội nghiệp.

Ở góc hang, nơi tối qua mấy cậu lái xe và lính thợ ngồi đánh tiến lên, ai thua thì bị bôi nhọ nồi, giờ chỉ một người thanh niên ngồi trân trân nhìn lên trần hang. Thục bỗng nhói lòng khi thấy một chàng trai trẻ có cái nhìn vô hồn như thế. Anh đến gần, khẽ nắm lấy bàn tay chàng trai. Bàn tay ấy vẫn nắm chặt chiếc ac-mô-ni-ca.

- Sáng nay cậu thổi chiếc kèn này phải không?

- Không. Đó là anh tôi. Mấy ngày nay lúc nào lòng anh ấy cũng vui. Cứ có thời gian là anh ấy đọc thư của cô bạn gái, rồi lại thổi kèn. Anh tôi thân với người bạn gái ấy ba năm nay, vừa rồi nhận được thư chị ấy đồng ý nhận lời. Chị ấy là giáo viên. Hai anh chị hợp nhau lắm. Cha mẹ tôi già rồi, chị tôi lấy chồng xa. Anh tôi học giỏi, tài hoa. Xã giữ lại làm công tác thanh niên, nhưng anh ấy cứ trốn cha mẹ vào bộ đội, rồi không ngờ hai anh em lại ở cùng đơn vị. Giá như sáng nay không phải là tôi, mà là anh ấy ra vũng suối sau tảng đá rửa bát thì anh ấy còn được về với cô gái. Rồi tôi sẽ nói gì với cha mẹ đây? - Nói đến đây, chàng trai bật khóc. Anh úp mặt vào đùi, nấc lên từng đợt.

- Thôi, nghỉ một chút cho lại sức đi em, mai ta tính tiếp - Thục bỗng thấy thương cậu bé như đứa em nhỏ của mình. Nhưng anh cũng hiểu câu nói của mình chẳng có tác dụng gì trước mất mát lớn lao của cậu.

Ngày đầu tiên đi làm việc ở đất lửa, Thục ngộ ra bao điều. Nơi tưởng yên bình nhất thì cái chết vẫn có thể chụp xuống bất cứ lúc nào. Ngược lại, vẫn có thể tìm được bình yên ở nơi tưởng như không còn sự sống. Những người lính trên Trường Sơn này đã sống như thế. Họ biết tin ở những điều may mắn tốt đẹp, và họ cũng sẵn sàng đón nhận về mình sự hy sinh.

Sáng hôm sau. Sau khi tính toán và thống nhất phương án chuyển xăng qua trọng điểm 468, ba người lên báo cáo Binh trạm trưởng. Binh trạm 112 phụ trách một cung đường rất khó khăn và ác liệt. Trên lối vào cơ quan Binh trạm, rất nhiều hố bom cũ và mới. Thục hiểu rằng bản thân Binh trạm bộ cũng phải hứng chịu không ít trận bom. Cuộc họp có đủ các cơ quan: tham mưu vận chuyển, công binh, cao xạ, xe, chính trị, hậu cần. Binh trạm trưởng Nguyễn Điền chăm chú nghe Thành báo cáo:

- Cho đến nay điều kiện kỹ thuật không cho phép dùng tuyến ống bơm xăng từ xóm Hung sang xóm Trứng. Chúng tôi đã trực tiếp thị sát tại hiện trường, và nhận thấy có ba yếu tố có thể chuyển xăng qua trọng điểm bằng sức người. Một là đang mùa mưa nên mật độ đánh phá của địch theo thời gian không dày đặc như trong mùa khô. Theo quy luật, trong mỗi ngày đều có khoảng lặng đủ thời gian để bộ đội đi bộ vượt qua trọng điểm. Hai là trọng điểm tuy bị cày xới xe không đi được, nhưng có thể sửa đường cho người đi. Ba là xăng chuyển đi nhất thiết phải được chứa trong thùng kín. Ta có phuy một trăm lít, bốn người có thể khiêng được. Nếu thiếu phuy thì đội của đồng chí Vĩnh có thể hàn thêm.

Cuộc họp bắt đầu nóng lên khi một người đứng lên chất vấn:

- Quy luật là một cái gì rất mong manh. Ta hãy tưởng tưởng cả đoàn quân đang đi trên trọng điểm mà địch bất ngờ ném bom tọa độ thì thương vong sẽ làm sao lường hết được?

 Mỗi người tham gia một ý. Cuộc họp gần như bế tắc. Binh trạm trưởng hướng về phía Thục:

- Ý đồng chí Phái viên Tổng cục thế nào?

- Báo cáo Binh trạm trưởng - Thục liếc sang phía Thành và Vĩnh rồi tiếp - Chúng tôi đã đi thị sát thực địa và nhận thấy với các dụng cụ chứa hiện có, chúng ta không thể dùng sức người vượt đèo theo đường tránh, bởi vậy mới tính việc đi qua trọng điểm. Hiện nay xăng là mặt hàng sống còn cho tuyến trước và Đoàn 559. Nếu không dùng biện pháp kiệu xăng qua trọng điểm thì phải có cách khác. Tôi xin truyền đạt lại ý của Chủ nhiệm Tổng cục: Bằng mọi giá phải chuyển được xăng cho 559.

Binh trạm trưởng đăm chiêu nhìn tấm bản đồ tuyến vận chuyển. Ông gõ gõ bút xuống mặt bàn rồi hỏi:

- Phải đưa xăng vượt qua 468. Ai có cách gì hay hơn thì đề xuất.

Một cánh tay giơ lên:

- Chúng ta không có can nhỏ thì dùng ni lông lót trong ba lô cho bộ đội gùi qua núi?

- Cũng là một ý kiến hay. Mọi người nghĩ sao? - Binh trạm trưởng hỏi.

- Tôi thấy đây là một phương án đáng được nghiên cứu -Thành nói - Tuy nhiên phương án này còn ba vấn đề phải xem xét tiếp: Một là, nếu gùi xăng thì ba lô chỉ có thể đựng được mười đến mười lăm lít. Như vậy để được một xe chở xăng, ta cần ba trăm đến bốn trăm chuyến. Số người quá lớn, phải xin trên chi viện. Hai là, xăng chứ không phải là nước, bởi vậy, không biết ni lông sẽ chịu xăng được bao lâu. Nếu ni lông bục, xăng chảy ra, có thể nguy hiểm tính mạng của người gùi và mất an toàn cho những người khác. Ba là việc đổ xăng vào ba lô và từ ba lô đóng vào phuy sẽ rất dễ tổn thất và mất an toàn.

Sau một hồi thảo luận, Binh trạm trưởng kết luận:

- Chúng ta không thể chờ cấp trên tăng quân được. Bởi vậy, trước mắt, thực hiện phương án kiệu xăng qua trọng điểm. Công binh phải chuẩn bị thật tốt hiện trường, cố gắng rút ra quy luật để bộ đội vượt trọng điểm an toàn nhất trong phạm vi có thể. Cùng với việc này, phải chuẩn bị sẵn sàng để chuyển sang phương án gùi xăng khi tình thế bắt buộc.

Sau hai ngày chuẩn bị, đường đã được san lấp lựa theo những chỗ cao. Hầm trú ẩn dọc tuyến được củng cố. Công binh dọn sạch bom lá, bom tai hồng và bom bi. Mười hai chàng trai nhanh nhẹn, khỏe mạnh được chọn ra để thí điểm việc kiệu xăng qua trọng điểm. Ở hai đầu trọng điểm, bộ phận xuất hàng và nhận hàng làm mọi việc để những người "kiệu xăng" có thể tận dụng từng phút yên bình trên trọng điểm. Bộ phận cứu thương sẵn sàng có mặt khi cần thiết.

Buổi sáng, dưới bầu trời xám xịt của mùa mưa, họ lên đường. Cứ bốn người khiêng một phuy xăng một trăm lít. Tổng trọng lượng một trăm ki lô gam không phải là nặng đối với bốn chàng thanh niên, nhưng vì giữa mùa mưa, đường dù được sửa lại, vẫn gập gềnh, lầy lội nên việc vận chuyển thật gian truân. Cả Thành và Thục đều đứng trên đường để chỉ huy và rút kinh nghiệm. Những người "kiệu xăng" vừa gồng mình cùng ba người bạn giữ cho phuy xăng ổn định trên mỗi bước gập gềnh. Tai họ luôn phải căng lên nghe ngóng, cảnh giác. Còn dưới chân, bùn nhão cứ níu chặt họ trong mỗi bước đi. Giữa trọng điểm mênh mông, những thân cây đen cháy và bầu trời xám xịt, tiếng máy bay từ xa như tín hiệu báo điều dữ sẵn sàng ập xuống bất cứ lúc nào. Mặc dù vậy, những người lính vẫn kiên trì từng bước. Mỗi chuyến của họ, ba phuy xăng vượt qua trọng điểm. Thục nhẩm: Mười lăm chuyến như thế này mới được một xe. Với tốc độ này, quy luật đánh phá của địch như thế này, một ngày mới được một xe. Quá chậm, nhưng tăng thêm người đi trên trọng điểm thì thật nguy hiểm. Phải giải bài toán này sao đây? Thục đang nghĩ mung lung, bỗng giật mình vì một tiếng "ối" thảng thốt và tiếng ai đó: "Có người rơi xuống vực rồi". Anh nhìn thấy ba người đang lảo đảo giữ cho mình và phuy xăng không lăn theo người đồng đội. Khi anh chạy đến thì người lính ấy đã lăn đến đáy vực. Sườn ta luy âm gần như dốc đứng, bom đào xới, đặt những khối đá chênh vênh trên triền dốc. Người lính ngã xuống, kéo lớp đất đá trôi, và mấy hòn đá lớn đã lăn theo, đè lên anh. Phải mất hơn một giờ, tổ quân y mới đưa được tử sĩ về nơi an táng. Thành cho tạm dừng việc kiệu xăng. Điểm lại, ngày đầu chuyển được mười lăm phuy.

Ngày hôm sau, các cọc tiêu báo những chỗ nguy hiểm được đóng dày lên. Đường được san cẩn thận hơn, Binh trạm tăng thêm người kiệu xăng. Mặc dù số phuy xăng chuyển qua trọng điểm tăng lên, nhưng thêm hai người hy sinh vì đạp phải bom bi lẫn trong bùn. Hai ngày vất vả và xương máu, Binh trạm 112 mới giao đủ hai xe xăng cho Đoàn 559. Sẩm tối, địch rải hỗn hợp bom lá, bom vướng nổ lên trọng điểm. Việc "kiệu xăng" đành dừng lại.

Thục điện báo cáo tình hình cho Cục trưởng. Qua điện thoại, tiếng Cục trưởng đầy lo lắng:

- Chủ nhiệm Tổng cục chỉ thị: Phải chuyển xăng vào cho 559 bằng mọi giá. Tổng cục đã nhận được yêu cầu tăng quân để gùi xăng cho Binh trạm. Ý cậu thế nào?

- Báo cáo, đến bây giờ thì anh em chúng tôi trong này chưa nghĩ ra cách nào hơn thế. Phương án này còn nhiều điều bất ổn, nhưng đành phải thử thôi, thủ trưởng ạ.

- Vậy thì Tổng cục sẽ đề nghị Bộ Tổng Tham mưu điều cho Binh trạm một tiểu đoàn để phục vụ việc này. Cậu phải cùng Binh trạm tính toán cẩn thận, và thường xuyên báo cáo về.

Mấy hôm sau Binh trạm 112 nhận được một Tiểu đoàn tăng cường gồm năm trăm người cả nam và nữ. Thành và Thục cùng dự khi Binh trạm trưởng giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng hồ hởi:

- Chúng tôi không ngờ việc lại quan trọng đến thế. Các đồng chí cứ yên tâm. Quân tôi gùi thồ giỏi lắm, có cậu gùi ba lăm, bốn mươi cân, đi bốn năm cây mà khỏe re.

Binh trạm trưởng cười:

- Gùi loại hàng này tuy không nặng, nhưng khó, và phải bảo đảm an toàn.

- Chúng tôi sẽ quán triệt đến từng người.

Binh trạm xuất ra bốn nghìn mét ni lông để gùi xăng. Thành và Thục kiểm tra kỹ từng mét ni lông lót ba lô. Thử thao tác đổ nước vào ba lô, buộc túm ni lông lại, đi một đoạn, rồi đổ nước ra. Họ nhận thấy công việc tưởng dễ dàng mà hóa ra thật phức tạp. Khi đi thì nước sóng sánh. Khi giao hàng cho kho thì nước bắn tung tóe ra ngoài, làm cẩn thận đến mấy cũng khó tránh được ướt quần áo. Nếu là xăng thì không chỉ dễ gây ngộ độc ([1]) mà còn rất dễ hỏa hoạn. Bởi vậy, họ phải cử cán bộ có trách nhiệm hướng dẫn ở đầu đổ xăng vào ba lô và điểm giao xăng cho kho.

Con đường từ nơi nhận xăng đến kho phải đi qua một khu vực đường ô tô bị bom cày xới lầy lội, rồi vượt qua một con dốc dài hơn hai cây số. Hàng trăm con người lội bì bõm qua quãng đường lầy, rồi vượt đèo theo trục tuyến ống cũ. Chuyến đầu đến nơi, niềm vui lộ rõ trên khuôn mặt mỗi người. Nhưng từ chuyến thứ hai, ni lông ngấm xăng bắt đầu giòn và rách. Xăng ngấm qua ni lông hoặc theo chỗ rách, thấm qua ba lô, qua quần áo rồi vào da thịt. Lúc đầu họ còn đi cố. Nhưng khi ni lông không còn công dụng đựng xăng nữa, xung quanh họ, không gian luôn nồng nặc mùi xăng, họ mất dần sự tỉnh táo. Những người say xăng bắt đầu bước đi lảo đảo. Một số người gục ngã giữa đường, cả túi ni lông bục vỡ, xăng tưới đẫm lên người họ.

Thục và Thành cùng Binh trạm trưởng đến Đội điều trị thăm thương binh. Những thương binh cả trai lẫn gái ngộ độc xăng da tím đỏ, phồng rộp. Lán và hầm của Đội điều trị không đủ chỗ. Một số phải nằm trên võng. Họ nằm sấp để những chỗ phồng rộp không bị tổn thương. Đội trưởng Đội điều trị báo cáo với ông rằng có hai trường hợp ngã giữa dốc, xăng tưới lên toàn thân, không có nước dội lên người ngay, xăng ngấm vào lâu quá, cứu không kịp. Nhìn những cô cậu chỉ bằng tuổi con mình nằm la liệt đau đớn, Binh trạm trưởng thốt lên: "Nghiêm trọng đến thế này ư!". Ông đến bên một chàng trai đang ngồi cho y tá bôi thuốc, hỏi:

- Cậu thấy trong người thế nào?

- Rát lưng thủ trưởng ạ - Chàng trai cười - Tôi bị nhẹ. Chắc vài hôm là tiếp tục đi được.

Câu nói vô tư của cậu bé khiến Binh trạm trưởng trở nên trầm tư. Về sở chỉ huy, ông triệu tập một số cơ quan lên hội ý. Theo báo cáo, một ngày làm việc cật lực của hơn bốn trăm con người, số xăng chuyển vào kho cũng chỉ đủ sức chở cho hai xe. Bốn mươi bảy người ngộ độc, trong đó có hai người hy sinh. Tỷ lệ tổn thất xăng trong quá trình vận chuyển xấp xỉ chuyển bằng đường ống tự tạo của binh trạm. Tiểu đoàn trưởng báo cáo rằng tinh thần anh em vẫn vững. Họ sẵn sằng tiếp tục gùi, và tin rằng Binh trạm sẽ có cách khắc phục những sự cố hôm nay. Binh trạm trưởng nhìn vẻ hồn nhiên của Tiểu đoàn trưởng, bỗng ông thấy có cái gì nghèn nghẹn. Họ trẻ quá, luôn vô tư và chấp nhận mọi hy sinh. Nhưng họ đâu biết rằng ngộ độc chì tai hại như thế nào, cả bây giờ và cả tương lai sau này của họ. Đúng là phải đưa xăng lên phía trước bằng mọi giá. Nhưng khi giá phải trả là xương máu, người chỉ huy phải biết đâu là giới hạn. Ông nhìn khắp lượt mọi người và nói như nói với lòng mình: "Giá đắt quá, ta phải tìm cách khác".

 

Thục cùng Binh trạm phó Binh trạm 114 và Trưởng ban Xăng dầu binh trạm vượt qua phà Xuân Sơn lúc mờ sáng. Anh nhận chỉ thị từ Tổng cục vào đây đôn đốc cố gắng đẩy xăng vào cho 559. Họ đi thêm nửa giờ nữa thì đến kho xăng dã chiến. Những phuy xăng được đặt trong hầm có nắp đất dày, nằm rải rác trong rừng. Cách cất giữ như thế này nhằm giảm tổn thất khi địch đánh vào kho. Trợ lý Binh trạm kể:

- Phải mất mấy tháng trời với bao tổn thất, Tổng cục Đường sắt mới chở được mấy trăm tấn xăng dầu từ Tân Ấp đến Đò Vàng. Đường thủy bị đánh tắc, Bộ Tư lệnh 500 dùng ô tô chở xăng phuy theo đường 22 đến ngã ba sông Son và sông Gianh, rồi chuyển xăng xuống phương tiện vận tải đường thủy ngược sông Son giao cho Binh trạm 114. Nhưng vận chuyển mới được vài chuyến thì sông Son bị địch ngăn chặn dữ dội. Bom từ trường và thủy lôi rải dày đặc trên mỗi khúc sông. Các chiến sĩ công binh cảm tử đã dùng ca nô kéo theo những thanh kim loại và nam châm để phá thông luồng. Do địch đánh phá gắt gao, hầu hết các xà lan ca nô đều bị đánh cháy. Binh trạm đã kết phuy xăng thành mảng. Mỗi mảng bốn mươi phuy. Trên mỗi phuy là ba chiến sĩ chống chèo. Đoàn mảng ngược sông Son dưới sự dòm ngó gắt gao của máy bay địch. Hơn một ngàn người đã đưa những chiếc mảng ấy ngược sông. Trên đường đi, họ chịu không ít trận oanh tạc của địch. Một số hy sinh, một số phuy xăng trúng bom, nhưng anh em đã kịp thời dập lửa. Khi đoàn mảng đến gần Cường Hà thì bị máy bay địch phát hiện. Chúng quần đảo và liên tục bắn phá dọc theo sông. Hai mảng trúng bom bốc cháy. Những người trên mảng và cả những người chèo thuyền ra cứu đều hy sinh. Phải mất ba ngày ta mới tìm được hết thi thể tử sĩ. Qua cuộc vật lộn gian truân ấy, Binh trạm đã chuyển về đây được gần một nghìn năm trăm phuy xăng.

Thục vào từng hầm, đếm lại số lượng phuy xăng. Nhìn những phuy xăng xếp ngay ngắn trong hầm, có nhiều phuy móp méo, có phuy còn in vết lõm do mảnh bom hoặc bom bi. Đã vượt qua bao trọng điểm ác liệt, Thục khâm phục và ngạc nhiên trước kỳ công của Binh trạm 114.

 

Sở chỉ huy Tiểu đoàn Công binh bảo vệ giao thông trọng điểm Trà Ang đóng trong một hang đá cách trọng điểm không xa. Gặp Tiểu đoàn trưởng, chỉ kịp uống chén nước, Binh trạm phó đã triệu tập mọi người để bàn kế hoạch chuyển xăng vượt trọng điểm.

- Tôi được Binh trạm trưởng Hoàng Tráng giao nhiệm vụ cùng các đồng chí chuyển xăng qua trọng điểm Trà Ang. Chủ trương của Binh trạm là kiên trì khắc phục mọi khó khăn chuyển hàng, kể cả xăng qua trọng điểm bằng ô tô, vì một chuyến ô tô bằng hàng trăm người chuyển tải. Trong tháng này, đã có một đêm chúng ta thắng lớn. Nhờ nắm chắc quy luật đánh phá của địch, hiệp đồng tốt giữa các lực lượng: công binh, cao xạ, lái xe, ta đã đưa được bốn mươi xe xăng qua trọng điểm này. Tuy nhiên, sau lần đó, địch ngăn chặn quyết liệt hơn, xe không thể qua được, mà 559 thì không thể chờ. Từ việc chuyển xăng ngược sông Son lên Cường Hà, ta hãy thử kéo các phuy xăng ngược suối Trà Ang.

Tiểu đoàn trưởng trải sơ đồ bảo đảm giao thông lên bàn, trình bày toàn bộ tình hình, quy luật đánh phá của địch. Cuối cùng, anh nói:

- Với mức nước hiện nay có thể kéo các phuy xăng ngược suối. Tuy nhiên, toàn bộ khúc suối chúng ta chuyển tải đều nằm trong khu vực trọng điểm, lại không có hầm trú ẩn nên nếu bị đánh lúc đang làm việc thì rất nguy hiểm. Bởi vậy, cần chuẩn bị kỹ.

Binh trạm phó đồng ý và yêu cầu ngay lập tức ra nghiên cứu thực địa.

Đoạn đường chạy dọc suối Trà Ang đi trên sườn núi đá, nằm trong vùng Phong Nha Kẻ Bàng. Giữa rừng đại ngàn ngút ngát, suốt bốn cây số trọng điểm, đá bị bom đào lở lói, trắng xóa. Những đại thụ đã cắm rễ sâu vào đá cả thế kỷ, giờ bị bom chém, chặt hàng trăm lần, cây còn nửa thân, cây còn lại những khúc cành tướp táp. Chúng đã chết từ bao giờ, cháy đen, nhưng vẫn đứng trơ trơ gan lỳ, in hình trên nền trời xám xịt. Vì đi qua vách đá nên đường tắc chủ yếu không phải do lầy, mà do hố bom đào sâu xuống nền, hoặc những khối đá bị bom, rơi từ trên vách xuống. Không phải nền đất nên việc làm hầm trú ẩn dọc đường rất khó khăn. Đơn vị bảo đảm giao thông trên những cung đường vách đá như thế này thương vong thường lớn. Giữa mùa vận chuyển cao điểm, có khi mỗi tháng hàng trăm chiến sĩ công binh hy sinh.

Thục cùng Binh trạm phó và mấy anh em lội dọc theo con suối đục ngầu. Những trọng điểm kiểu này địch thường đánh "chuyên cần" hơn. Đất ở đây đủ cho cây lên thành đại ngàn, nhưng không đủ dày để đào hầm trú ẩn. Bởi vây, Binh trạm phó ra lệnh: dọc suối, chỗ nào không đào được hầm thì phải dùng bao tải đựng đất hoặc cát suối xếp thành hầm chữ A. Một số tảng đá lăn từ trên đường xuống cũng được lệnh phá để tiện cho việc kéo phuy.

Sau ba ngày làm việc cật lực, những tảng đá chắn đường  đã được dọn sạch, hầm trú ẩn được đào dựa theo địa hình hoặc tảng đá lớn. Hàng trăm phuy xăng đã được tập kết ở điểm đầu. Gần một trăm chiến sĩ khỏe mạnh, dũng cảm được chọn thành đội chuyển tải. Binh trạm phó nhìn khắp lượt những chàng lính trẻ và nói:

- Tôi muốn nhấn mạnh với các đồng chí: Đây là một việc vô cùng khó khăn, có thể phải hy sinh xương máu, vì đoạn tuyến chúng ta kéo phuy thường bị địch đánh rất bất chợt. Biết vậy, nhưng phía trước không còn xăng chở lương thực, vũ khí cho bội đội, không còn xăng chuyển thương binh, nên chúng ta phải bằng mọi giá đưa xăng qua trọng điểm. Đến giờ này, ai cảm thấy sợ, có thể ở lại.

Ông nhìn khắp lượt. Sau vài giây im lặng, Đội trưởng đứng dậy:

- Báo cáo thủ trưởng, trước khi đến đây, chúng tôi đã chọn những người tình nguyện. Mọi người đều sẵn sàng - Anh quay xuống phía các chiến sĩ - Chúng ta sẵn sàng chưa?

- Đã sẵn sàng!

Thục cảm động nhìn những người lính trẻ. Họ chấp nhận dấn thân thật giản đơn và vô tư. Ba ngày ở đây, anh đã hiểu được sự ác liệt của trọng điểm này. Cả ngày lẫn đêm, chẳng mấy khi vắng tiếng gầm rít của máy bay và bom đạn.

Để đảm bảo chắc chắn, đội chuyển tải chia thành nhiều tốp đi dọc suối làm quen với thực địa, biết được vị trí các hầm trú ẩn. Họ được ăn no và yêu cầu ngủ lấy sức cho buổi tối. Mấy cậu lính trẻ đang tuổi ăn, tuổi lớn phút chốc đã lăn ra ngủ. Duy có một cậu vẫn ngồi hý hoáy viết. Thục đến bên nhỏ nhẹ:

- Em tên gì? Đêm nay vất vả đấy, em phải ngủ đi để lấy sức.

- Em tên Quảng. Dù sao cũng có thể coi như sắp vào một trận đánh anh ạ. Những lúc như thế này em nhớ người yêu lắm. Em viết mấy dòng nhật ký, lỡ có chuyện gì, bạn ấy hiểu hết tấm lòng của em.

- Người yêu em bao nhiêu tuổi?

- Mười tám. Bạn ấy đẹp lắm. Nhiều người ngấp nghé. Bạn ấy yêu em, nhưng lại chưa thật tin em yêu bạn ấy, vì bạn ấy bảo trong xã nhiều cô gái để ý đến em. Em đi thế này, nhiều người gửi thư, liệu còn yêu nhau nữa không. Hơn nữa, em đi bộ đội vào nơi ác liệt, lúc nào bạn ấy cũng canh cánh.

Thục nhìn cậu con trai và nhận ra cậu đẹp trai thật: to cao, vạm vỡ, mặt vuông chữ điền, đôi lông mày sắc như hai lưỡi mác.

- Vậy em và bạn ấy là nam thanh nữ tú trong xã, đúng không?

- Mọi người bảo vậy. Hai đứa nhớ nhau lắm, nhưng mà mỗi đứa đều cứ lo.

- Vậy em viết đi rồi cố chợp mắt nhé.

Thục ngả lưng, cố tự dìu mình vào giấc ngủ mà trong đầu cứ hiện về hình ảnh mấy người lính kiệu xăng qua trọng điểm 468, những người con trai, con gái lảo đảo vì ngộ độc khi gùi xăng qua núi. Tổn thất trong cuộc chiến thật lắm dạng hình. Tối nay trên hơn ba cây số đường suối chạy dọc trọng điểm Trà Ang này liệu có yên ổn không. Phía trước khát từng giọt xăng. Biết bao xương máu đã đổ xuống các cung đường, các dòng sông, mới đưa được những phuy xăng quý giá vào đến đây. Từ đây vào đến các mặt trận, sẽ còn bao xương máu nữa đổ xuống? Rồi bất giác, anh tự giận mình không nghĩ ra kế gì hay hơn để giảm bớt thương vong cho bộ đội khi chuyển xăng.

Tám giờ tối, đội chuyển tải xuất phát. Từ tối đến giờ, trọng điểm không có tiếng bom. Binh trạm phó dặn mọi người:

- Mỗi phút yên tĩnh trên trọng điểm là vô cùng quý giá, các đồng chí phải hết sức khẩn trương. Nếu địch đánh, cố gắng bảo vệ các phuy xăng trong phạm vi có thể. Các đồng chí nhớ cho rằng mỗi phuy xăng vào đến đây đều phải đổi bằng xương máu. Các đồng chí rõ chưa?

- Rõ! - Tiếng toàn đội đồng thanh.

Thục cùng Binh trạm phó và mấy người chỉ huy kiểm tra lại dây buộc kéo phuy. Cách buộc này, khi cần vẫn có thể lăn phuy dễ dàng. Dưới ánh trăng hạ tuần mờ mờ, đoàn người lặng lẽ hai người kéo một phuy xăng dọc theo dòng suối. Họ giữ cự ly cách nhau ba mươi mét để đề phòng giảm bớt thương vong khi bị bom đánh. Thục đứng gần điểm giao hàng ở phía nam trọng điểm. Cứ mỗi phuy xăng đi qua, anh lại cảm thấy trong lòng nhẹ đi một chút. Bóng những người lính xiêu xiêu. Tiếng bì bõm khỏa vào không gian theo mỗi bước chân của họ.

Một tiếng rít xé toạc không gian yên tĩnh. Bom bi bất ngờ chụp lên dọc theo triền suối. Thục xoài người, lăn hai vòng xuống một hầm trú ẩn. Những trái bom bi kế tiếp nhau nổ, lửa tóe trên các tảng đá, trên bờ suối. Lửa tóe lên từ mặt nước. Hai khối lửa bùng lên từ hai phuy xăng trúng bom. Thục hét lên:

- Kéo phuy xăng lên khỏi mặt nước!

Anh lao lên cùng mọi người lăn các phuy xăng lên bờ cát. Đây đó đã có một số người gục xuống. Chắc họ bị trúng bom bi. Phía xa, Thục phát hiện một người đang loạng choạng cố đẩy phuy xăng lên bờ, nhưng phuy xăng vẫn cứ lăn trở lại mặt nước. Anh lao tới và nhận ra ngay đó là Quảng, cậu lính trẻ viết nhật ký lúc chiều, còn người bạn thì đã nằm bất động trong vũng máu. Khi Thục cùng Quảng lăn được phuy xăng xuống một cái hố trên doi cát, cũng là lúc Quảng gục xuống. Thục kéo Quảng vào một căn hầm gần đó. Lúc này anh mới nhận ra khắp người Quảng đầm đìa máu. Quảng thều thào:

- Anh gửi giúp em cuốn nhật ký - Rồi Quảng lịm dần trong tay anh.

Hai phuy xăng rần rật cháy. Lửa theo xăng tràn ra mặt nước. Những phuy xăng trúng bom bi đang trôi cũng bắt đầu bén lửa. Phút chốc, cả mặt suối bùng lên như biển lửa. Hai bên bờ suối nóng ràn rạt, ngột ngạt. Ngồi trong hầm, Thục ho sặc sụa, mặt rát như bỏng. Bên anh, Quảng đã tắt thở. Lửa và các phuy xăng cháy đang trôi theo dòng suối. Thêm mấy loạt bom bi và những tràng đạn hai mươi ly bắn dọc theo suối. May thay, địch đánh dịch về phía hạ lưu nên không thêm phuy xăng nào bén lửa.

Dứt tiếng bom, mọi người lao ra khỏi hầm. Họ đưa thương binh đi sơ cứu và cùng nhau kéo các phuy xăng còn lại trên bờ suối đến nơi giao hàng. Lúc này mọi người mới thấm mệt. Người nào cũng sạm da vì bỏng rát, khát cháy họng. Một vài người kiệt sức ngồi bệt xuống bên phuy xăng sau khi đã giao cho đơn vị tiếp nhận. Thục cùng đội trưởng đội chuyển tải và trợ lý xăng dầu Binh trạm kiểm lại: hai mươi phuy xăng đã tới đích. Chín chiến sĩ hy sinh, bảy bị thương.

Qua một đêm làm việc căng thẳng và cật lực mà Thục vẫn không sao chợp mắt... Anh  nghẹn ngào đọc những trang nhật ký của Quảng:

Ngày...

Em ạ. Trường Sơn đang mùa mưa. Ở trong lán giữa rừng, tiếng mưa gõ lên mái tăng hình như làm cho nỗi nhớ em cứ đầy lên da diết. Tối nay bọn anh sẽ chuyển tải xăng qua trọng điểm Trà Ang. Trọng điểm này ác liệt lắm. Thủ trưởng bảo bọn anh: Ai sợ thì có thể ở lại. Em ơi. Em có sợ không? Trước khi nhận nhiệm vụ, tất cả đội chuyển tải của anh đều chấp nhận mọi điều, kể cả hy sinh. Trên tuyến Trường Sơn này, gian khổ ác liệt vậy. Nhưng bọn anh dễ gì so được với các chiến sĩ ngoài mặt trận. Sau mệnh lệnh xung phong là họ bật dậy lao lên phía trước, bất chấp đạn địch bắn ra như mưa, và bên họ lần lượt đồng đội gục ngã. Đêm nay, anh tin rằng anh sẽ làm tròn nhiệm vụ, và sẽ lại vượt qua cái chết  như lúc bọn anh kéo các phuy xăng ngược sông Son. Em hãy tin tưởng, hãy chờ anh em nhé. Còn nếu anh có mệnh hệ gì thì em hãy tin rằng trong cuộc đời mình, có một người đã yêu em bằng tất cả trái tim, và người ấy đã mang trọn tình yêu và hình ảnh em sang bên kia thế giới...

Mắt Thục nhòa đi qua mỗi trang nhật ký. Hình ảnh chàng trai vạm vỡ với đôi lông mày lưỡi mác cứ ám ảnh tâm trí. Nhớ đến lời của Quảng trước khi tắt thở, anh tâm niệm nhất định phải tìm mọi cách chuyển cuốn nhật ký này đến tận tay người con gái.

Thục nằm gối lên hai bàn tay, trân trân nhìn lên trần hang đá, trong lòng anh bỗng trào lên nỗi nhớ Khanh da diết. Vào đến đây anh mới hiểu hết sự ác liệt của tuyến lửa Trường Sơn. Chàng trai đã ra đi, mang theo tình yêu của một người con gái. Còn anh? Tối nay, anh sẽ lại cùng đội chuyển tải bước vào một trận chiến đấu mới. Điều gì sẽ đến với anh, thật khó mà nói trước được. Nếu ra đi, anh sẽ mang theo một mối tình thầm lặng với Khanh. Mối tình ấy thật trong trẻo, ngọt ngào, thánh thiện cùng những ký ức, kỷ niệm đẹp mà anh cất giữ trong sâu thẳm tâm hồn. Hình ảnh Khanh luôn theo anh trên mỗi bước đường hành quân, cả những lúc vất vả nhất, hay những phút giây thư giãn hiếm hoi của người lính thời chiến tranh. Đôi khi nó trở thành nỗi nhớ da diết làm anh quặn thắt trong lòng. Khanh, cái tên ấy trong anh thật thiêng liêng, trìu mến. Buổi sáng yên tĩnh lạ thường, trong hang đá giữa rừng Trường Sơn, nơi trọng điểm ác liệt này, những kỷ niệm bỗng ùa về. Không biết đây có phải là nỗi nhớ cồn cào của người lính trước khi bước vào trận đánh?

 

Thục và Khanh quen nhau từ những ngày học ở trường nơi sơ tán. Ngày ấy Khanh còn là một cô bé thật dễ thương với đôi mắt trong veo và mái tóc với những lọn xoăn mềm mại rủ xuống trán. Thục hơn Khanh bốn tuổi, là bạn cùng học với Sơn anh trai Khanh. Anh được người chú đưa ra học và ở cách nhà Khanh một cái ngõ dài trong cùng khu tập thể.  Không hiểu vì sao khi đến nhà Sơn chơi lần đầu, vừa gặp cô bé Khanh, anh đã có một cảm giác thật thân thương, trìu mến. Ngày ngày anh chỉ muốn được đi học chung cùng đường với em để chăm sóc và bảo vệ em vì những buổi chiều đi học về bọn con trai trong làng thường hay ra đón đường trêu chọc: "Ê! Cô bé tóc xoăn, dân Hà Nội sơ tán chính gốc đấy chúng mày ơi!". Có lần anh phải xông ra đánh nhau giải tán đám con trai ngỗ nghịch khi chúng định bày trò trêu em bằng cách giằng lấy cặp sách giấu vào bụi cây. Sau lần đánh nhau ấy, bọn chúng không còn dám bén mảng đón đường trêu em nữa. Kỷ niệm thiếu thời thật vô tư, hồn nhiên, trong trẻo. Khanh đáp lại sự quan tâm của Thục bằng sự chăm sóc dịu dàng nho nhỏ. Em phát hiện ra có một cái hốc xinh xắn trong góc tường đầu ngõ gần nhà anh. Mỗi sáng sớm trước khi đi học em thường gửi vào đó cho anh những món quà, khi thì là một củ khoai nướng nóng hổi, thơm phức, khi thì lọ mực, quả na chín và dặn anh đến lấy. Em nói thương anh xa nhà nên không có được bàn tay chăm sóc của mẹ, không được ăn uống đầy đủ như ở gia đình, thật khổ thân. Lâu dần, cái hốc ấy trở thành "bưu điện" để có bài toán khó, không giải được, em cũng để vào đấy nhờ anh giải hộ. Em coi anh như một người anh trai che chở. Còn anh thì chăm sóc em như một cô em gái nhỏ với một mối cảm tình thầm lặng không diễn đạt thành lời.

Tuổi trẻ con vô tư qua nhanh, anh tốt nghiệp cấp III, rồi thi đỗ vào đại học. Tròn 17 tuổi, anh giã từ trường học sơ tán và xa em. Ngày tiễn biệt anh, em đã khóc. Em hỏi có bao giờ anh trở lại nơi này nữa không? Em đã dành cho anh sự lưu luyến của một cô em gái khi phải xa người anh của mình không biết bao lâu nữa mới gặp lại. Còn anh, chính ngày chia tay ấy, anh đã mơ hồ hiểu thế nào là cảm xúc bâng khuâng đầu đời của tuổi học trò. Anh nhập học ở trường đại học trên Hà Nội. Quê anh, một vùng biển đẹp và nghèo, những người dân bám biển để sống qua ngày. Rồi bất hạnh bất ngờ ập đến gia đình anh. Mẹ anh mất vì bệnh, cha suy sụp nhưng ngày ngày vẫn phải gắng gượng ra khơi đánh cá nuôi các con ăn học. Vào một ngày bão tố, cha anh không thấy trở về, nhà cửa ở quê bị lốc cuốn hết, người nhà báo lên và anh gấp gáp về quê hy vọng cùng mọi người tìm được cha và trợ giúp cho các em còn bé dại qua cơn hoạn nạn. May mắn sao cha anh thoát chết, 3 ngày sau tan bão, người ta tìm thấy cha anh cùng mảnh thuyền bị sóng đánh tan nát dạt vào cồn phi lao ven bờ biển cách xa làng chài. Cha anh bị khủng hoảng nặng cả về tinh thần và sức lực. Kinh tế gia đình khánh kiệt. Đang là sinh viên Đại học Bách khoa năm thứ nhất, học rất giỏi, anh buộc phải bỏ học về thay cha ra khơi đánh cá nuôi các em.

Ba năm sau, người chú ruột của anh là sĩ quan quân đội tiếc cho khả năng học tập của anh, đã thu xếp mọi việc trong nhà để anh có thể vào học một trường sĩ quan. Chú nói rằng nếu phấn đấu trở thành sĩ quan, anh sẽ có được sự nghiệp sau này và cũng có thể trợ giúp được gia đình, cưu mang được các em, còn nếu không đi học thì chắc anh cũng sẽ nhập ngũ trong đợt nghĩa vụ quân sự sắp tới ở địa phương. E rằng ba năm chài lưới rớt dần chữ nghĩa, để đảm bảo thi đỗ, chú gửi anh vào một lớp luyện ôn thi đại học của Trường Văn hóa quân đội sơ tán trên miền đất trung du. Anh không ngờ ngôi trường sơ tán miền trung du đó lại là nơi ghi dấu kỷ niệm của tâm hồn.

Hồi đó có hai lán lớp học toàn là bộ đội, những hạ sĩ quan có năng lực, được gửi đi học ôn để thi vào các trường đào tạo sĩ quan. Ở lớp bên cạnh lán lớp của anh có hai cô gái được gửi vào học cùng. Hai cô nữ sinh xuất hiện giữa lớp học toàn các anh bộ đội trẻ, đã làm cho lớp học trở nên sôi động. Một trong hai cô gái ấy có dáng dong dỏng, gương mặt thanh tú, xinh đẹp. Giữa thời chiến ở vùng trung du này thật khó mà tìm được một người xinh đẹp đến thế. Bao nhiêu chàng bảnh trai, bao nhiêu chàng bẻm mép, bao nhiêu chàng lãng mạn đã trổ tài ăn nói, làm thơ, hoặc lén gấp vào trang vở của cô gái một bông hồng để tỏ tình cảm. Có chàng vì thấy cô gái kiêu sa mà thách đố nhau trổ tài tán tỉnh, có chàng "cảm nắng", tương tư thật lòng. Các hạ sĩ quan truyền nhau và nói với anh rằng, cô gái đó không những xinh đẹp, ngoan hiền, mà còn học rất giỏi, ngay từ khi xuất hiện đã là mối cảm tình, ngưỡng mộ của nhiều chàng hạ sĩ quan trẻ trong lớp. Mà thật kỳ lạ, bao nhiêu thư từ gửi gắm như thế mà cô gái vẫn tỏ ra hồn nhiên, nói năng lễ phép dịu dàng, vui vẻ vô tư và chăm chỉ học hành như không hề có chuyện gì xảy ra. Anh bỗng thầm nghĩ và liên tưởng đến Khanh. Đã ba năm trôi qua rồi, chắc giờ Khanh đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp và học giỏi như cô gái đang học ở lán lớp bên kia vậy. Tuy không nói ra, nhưng trong tâm tư của anh, khi nhận lời người chú đi học để thi lại vào trường sĩ quan, anh đã thầm mong được trở lại miền đất trung du nơi trường sơ tán năm xưa để có cơ hội gặp lại Khanh. Đã mấy năm trôi qua rồi, gia đình Khanh không biết có còn ở nơi sơ tán không hay đã trở về Hà Nội.

Rồi một "sự kiện" đã xảy ra ở lớp học. Chàng bộ đội trẻ nhất trong lớp bắt được một bài thơ của một chàng nào đó viết tỏ tình với cô gái. Giờ giải lao chàng đọc to cho cả lớp cùng nghe. Tác giả bài thơ ngượng đỏ mặt. Còn cô gái thì cảm thấy dường như bị xúc phạm, lúng túng, khó xử, cô đến bày tỏ với thầy giáo là bạn của bố cô ở trường văn hoá. Cô nói với thầy giáo rằng có lẽ cô sẽ xin thôi không học ở đây nữa vì cảm thấy bất tiện, khó tập trung tư tưởng để học tốt và cũng không muốn làm ảnh hưởng đến việc học tập của các anh bộ đội. Thầy giáo một mặt động viên cô gái không nên bỏ lớp, mặt khác yêu cầu lớp cử người lên phòng ở của cô để xin lỗi về sự việc xảy ra, hứa với cô sẽ chấm dứt những sự việc tương tự và đề nghị cô ở lại tiếp tục học.

Thật bất ngờ, anh được anh bạn lớp trưởng lớp bên tin tưởng mời làm "sứ giả" đi cùng để đến xin lỗi và động viên cô gái. Lý do là vì anh có  vẻ "có tuổi", chững chạc nhất và theo họ, anh là người có dáng vẻ tự tin nhất. Anh không ngờ buổi chiều hôm đó đã in dấu vào cuộc đời anh một kỷ niệm không bao giờ quên được.

Chiều nắng dịu, rặng tre đằng ngà chạy dọc theo lối đi lao xao trong gió. Anh cùng người bạn lên căn nhà nhỏ lưng đồi nơi cô gái ở. Một căn nhà tường trát tooc xi, có hàng rào dâm bụt vây quanh vườn cây ăn trái. Anh tần ngần đứng trước cửa, tay cầm tập báo lấy cớ mang tới cho cô gái đọc. Nhìn qua cửa, thấy cô gái đang ngồi quay lưng lại, mái tóc dường như vừa gội trông như vẫn còn ướt, hơi gợn sóng, buông mềm xuống bờ vai thon thả. Cô gái đang chăm chú, mải mê học bài. Tự nhiên anh thấy mình không đủ can đảm bước vào. Chờ anh bạn cùng đi bước thêm vài bước đến sát cạnh, cảm thấy tự tin hơn, anh đứng từ ngoài nói vọng vào: "Chào em gái! Các anh thay mặt lớp lên gặp em để..., để..." Anh chưa nói dứt câu, cô gái quay người lại ngước nhìn lên. Anh sững sờ đánh rơi chồng báo đang cầm trên tay: "Trời ơi! Khanh đấy sao!". Đúng là em thật rồi! Khanh của bốn năm về trước, cô bé Khanh của những kỷ niệm ngọt ngào thời niên thiếu giờ đây trước mặt anh là một thiếu nữ, xinh đẹp dường kia. Mái tóc xoăn ngày xưa thường kết thành hai cái đuôi sam nhí nhảnh, xinh xinh, giờ đã là một mái tóc gợn sóng, óng ả buông qua bờ vai xuống bộ ngực căng tròn. Ngày xưa, mỗi khi em xấu hổ hay làm một việc gì nặng nhọc, đôi má em thường ửng đỏ như hai trái bồ quân. Giờ đây, đôi má ấy phớt hồng với làn da trắng mịn màng. Còn đôi mắt. Chao ôi, vẫn là đôi mắt Khanh với cái nhìn trong veo ngày xưa, nhưng giờ đây là đôi mắt to trong với cái nhìn hút hồn sâu thăm thẳm. Đứng cách Khanh chừng vài bước chân, khi ánh mắt hai người chạm nhau, anh bỗng thấy mình không thể đứng vững, chân tay lóng ngóng. Anh cố giấu nỗi lúng túng, vờ cúi nhặt mấy tờ báo đánh rơi, rồi nói với Khanh giọng líu ríu: Ôi, em đúng là Khanh, con bác Vũ đấy phải không? Khanh cười reo vui rạng rỡ: Vâng! Là em đây. Anh Thục ơi! Đúng là anh rồi! May quá! Thế là em được gặp lại anh. Vừa trông thấy anh là em nhận ngay ra anh. Trí nhớ của em tốt hơn anh, đúng không? Mà em nghe nói anh đang học Đại học Bách khoa ở Hà Nội. Em nhẩm tính anh đang là năm cuối chuẩn bị tốt nghiệp rồi cơ mà? Sao anh lại ở đây?

Anh không nhớ lúc đó anh đã nói với em những gì. Hình như anh đã nói nhiều, nhiều lắm để che đi những cảm xúc bất ngờ ùa ập đến trào dâng trong lòng. Và anh cũng nghe em nói, kể với anh nhiều chuyện lắm về gia đình, về anh Sơn anh trai em, về miền đất trung du một thời luyến nhớ.

Rồi những ngày cùng học, chúng mình đã có những buổi chiều hàn huyên trên triền đồi lộng gió. Anh trải lòng về những ngày tháng khó khăn đã qua. Em đã lắng nghe bằng sự cảm động, thương mến thành thực và trong trẻo vô tư của một người em gái.

Còn anh, chắc em sẽ  không bao giờ biết được, cuộc đời và tâm hồn  anh chỉ một lần ấy, trót chạm vào ánh mắt của em sau mấy năm xa cách, khi những kỷ niệm và ký ức tuổi thơ ngọt ngào ghi dấu nơi sâu thẳm tâm hồn, bỗng chốc trỗi dậy, trào dâng thành một cảm xúc mới mẻ, kỳ diệu. Và dường như sau phút giây kỳ diệu ấy, trong suốt những năm tháng sau này, tình yêu trong anh cứ lớn dần lên, không thể nào cưỡng được. Bao lần lấy hết can đảm, mà sao đứng trước em, anh lại không thể nói ra tình cảm rất thực của lòng mình. Vì em quá xinh đẹp, quá giỏi giang? Vì nhà anh nghèo, trong khi cha em là một sĩ quan quân đội cao cấp? Vì anh quá nhút nhát? Hay vì em lúc nào cũng dành cho anh những tình cảm trìu mến trong trẻo, vô tư, hồn nhiên của một người em gái với người anh trai? Có lẽ vì tất cả... Anh cũng không biết nữa. Nhưng anh đã yêu em từ lâu mất rồi. Một tình yêu lặng thầm, sâu sắc. Anh luôn nhớ em, yêu em đến quặn thắt trong lòng với một mối tình thiết tha. Còn em, sẽ có bao giờ em hiểu được? Phải chăng trong em, anh mãi mãi vẫn là một người anh trai thân mến, tin cậy của em như những ngày xưa? Giờ đây, anh đang dấn thân nơi chiến trường khốc liệt nhất. Sự sống và cái chết với anh, với đồng đội anh nơi đây chỉ là gang tấc. Có thể ngày mai anh sẽ không trở về. Nếu vậy, anh sẽ ra đi, mang theo trọn vẹn ảnh hình em và một mối tình đơn phương, mà em không hề biết. Cầu mong Khanh của anh sẽ không bao giờ phải có những điều muộn phiền và luôn có được một cuộc sống hạnh phúc với những gì tốt đẹp nhất!

 

Chiều. Binh trạm phó cùng những cán bộ có liên quan rút kinh nghiệm đêm qua và chuẩn bị cho trận đánh tối nay. Ngay lập tức, số hầm trú ẩn được đào dày lên. Trong phương án tác chiến, y tá cùng dụng cụ cứu thương được bố trí giữa cung đường. Phương án cứu phuy xăng được phổ biến chi tiết đến từng người. Đêm nay đội chuyển tải xuất quân sớm hơn. Mọi người đã quen địa hình, lại rút kinh nghiệm đêm qua nên công việc nghe chừng trôi chảy. Trăng hạ tuần đã lách qua đám mây, chiếu xuống đại ngàn. Ánh trăng tuy không ngọc ngà như đêm rằm, nhưng cũng đủ soi rõ lèn đá lở lói và dòng người bì bõm lặng lẽ kéo những phuy xăng ngược dòng suối. Từng phuy, từng phuy được tập kết nơi giao nhận. Đã qua thời điểm đêm qua địch đánh được nửa giờ. Chính vào lúc Thục đang mừng thầm, thì bom bắt đầu nổ. Lại là bom bi. Nhưng lần này, không phải là một loạt bom bất chợt theo kiểu bom tọa độ như đêm qua. Rõ ràng đây là trận đánh tập kích. Những loạt bom nối nhau nổ. Nhiều phuy xăng đã bốc cháy. Lửa bùng lên từ những phuy xăng trên mặt suối và cả những phuy xăng đang trên bờ cát. Rồi những loạt bom sát thương, bom phá. Những phuy xăng trúng bom bốc cháy bị hất tung lên trời. Trong biển lửa, nhiều người gục xuống. Ai đó đang cố lăn trên bờ cát để dập tắt lửa bén vào quần áo. Cả khúc suối Trà Ang ngập trong lửa và những tiếng nổ chát chúa.

Khi dứt tiếng bom, mọi người lại lao ra cứu đồng đội và các phuy xăng còn lại. Nhưng những người đầu tiên lao ra khỏi hầm, đã vấp vào những sợi dây lạ, và lại những tiếng nổ. Họ gục xuống. Đội trưởng hét lên: "Địch thả bom vướng nổ, mọi người nằm im trong hầm!".

Ngay khi có thể nhận rõ mặt người, tốp công binh bắt đầu gỡ bom vướng nổ. Phải mất ba giờ đồng hồ họ mới mở được đường đưa thương binh và những người trong các hầm trú ẩn vượt được ra ngoài trọng điểm.

Đêm thứ hai, ba mươi phuy xăng đã tới đích, nhưng hai mươi chín chiến sĩ hy sinh, mười tám người bị thương. Những người vượt qua cái chết thì da đều sạm đen, bỏng rát. Trong lúc lăn vào hầm, Thục cũng bị một viên bi găm vào bắp tay. Vì lúc bom nổ, anh cố kéo một thương binh vào hầm, nên không phân biệt được máu của mình hay của người lính kia. Phải đến lúc hoàn toàn yên tĩnh, anh mới cảm thấy nhói và nhận ra vết thủng trên tay áo. Dù sao vết thương ấy cũng còn là vô cùng may mắn so với tổn thất đêm nay.

Với cánh tay mang băng trắng, Thục cùng Binh trạm phó xuống trạm quân y. Những người bị thương rên rỉ vì đau đớn. Không chỉ là những vết thương vì bom, mà cả những vết bỏng sâu trên da thịt họ. Binh trạm phó nghe bác sĩ trưởng trạm báo cáo, rồi ông im lặng đi qua các giường thương binh. Ông ngồi xuống bên một thương binh băng trắng kín chân tay và đầu, kể cả đôi mắt, khẽ nắm cánh tay anh.

- Bác sĩ đấy phải không - Tiếng nói yếu ớt nhoi ra từ dưới lớp băng.

- Tôi đây - Bác sĩ trưởng trạm đáp.

- Mắt tôi còn nhìn được không bác sĩ? Chỉ cần nhìn được là cuộc sống tươi đẹp lắm rồi, phải không bác sĩ?

- Phải rồi. Anh cứ yên tâm điều trị. Rồi mọi việc sẽ tốt đẹp thôi.

Cảm thấy bác sĩ định giới thiệu mình, Binh trạm phó ra hiệu để anh thôi. Thục bỗng nhận ra ngấn nước trên đôi mắt người sĩ quan già. Ông kín đáo nhìn sang chỗ khác. Ra khỏi hầm, bác sĩ báo cáo với ông rằng người thương binh ấy rất lạc quan, nhưng đôi mắt của anh rất khó cứu vãn. Binh trạm phó yên lặng giây lát, rồi nói:

- Hãy cố gắng điều trị tốt nhất cho họ. Trong khả năng của mình, Binh trạm sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của các đồng chí.

Từ trạm quân y, họ ra nghĩa trang. Đội trưởng đội chuyển tải cũng đang có mặt ở đó. Những ngôi mộ mới đắp, những tấm bia bằng gỗ với những dòng chữ chưa khô hắc ín ghi tên tuổi người nằm dưới mộ. Mấy đội viên đội chuyển tải đưa cho Binh trạm phó những bông hoa cúc dại để ông đặt lên từng ngôi mộ. Lại những ngôi mộ mà những người nằm dưới đó hầu hết chưa tròn hai mươi tuổi. Từng dạn dày trên tuyến Trường Sơn ác liệt, từng bao nhiêu lần viếng mộ các chiến sĩ của mình ngã xuống, mà sao lần này ông thấy lòng quặn thắt. Ông nhớ đến tiếng đồng thanh "Sẵn sàng" của họ cách đây mấy ngày.

- Báo cáo thủ trưởng, xe chở xăng đi giao cho 559 đã sẵn sàng lên đường, đang chờ chỉ thị của thủ trưởng - Trưởng Ban Xăng dầu đứng nghiêm báo cáo.

Ba chiếc Zil ba cầu phủ đầy lá ngụy trang đậu ở bãi xe. Mấy cậu lính lái đang thu dọn bát đĩa của bữa cơm chiều vừa ăn xong. Một thanh niên cao gầy, da ngăm đen chạy đến đứng nghiêm:

- Báo cáo thủ trưởng, tôi, Đại đội trưởng Đại đội Ba, Tiểu đoàn xe, đã chuẩn bị sẵn sàng lên đường giao xăng cho 559. Xin chỉ thị đồng chí.

Binh trạm phó kiểm tra kỹ từng chiếc xe. Trên ca pô mỗi xe là "giàn mướp" bằng những lớp nứa đập dập để ngăn bom bi rơi xuống đầu máy. Hai bên cửa xe và thành xe cũng được bao bọc cẩn thận bởi một lớp áo giáp bằng thân cây nứa đập dập như thế. Giàn mướp và lớp áo giáp ấy sẽ bảo vệ người lái xe trong loạt bom đầu tiên nếu bom không rơi trúng xe. Ông trèo lên thùng xe kiểm tra từng phuy xăng. Nhìn những phuy xăng móp méo, ông chạnh lòng nghĩ đến biết bao gian nan tổn thất đã qua và những đoạn đường ác liệt phía trước của những chiếc xe này. Đoạn đã qua đầy xương máu, đoạn trước mắt cũng chẳng kém gì. Ông đã chỉ thị chọn những xe tốt nhất của Binh trạm, mỗi xe có hai lái, đều là những người dạn dày kinh nghiệm. Vậy mà ông thấy vẫn phải nói cho họ hiểu hơn trước lúc lên đường.

Bảy người trong đội xe chở xăng đứng nghiêm thành hàng. Binh trạm phó kiểm tra lại mũ sắt, áo giáp của từng người. Rồi ông bước lên trước những người lính trẻ:

- Các đồng chí đều là người của Binh trạm 114. Các đồng chí đều đã hiểu giá không thể đo được của mỗi phuy xăng đang nằm trên xe. Sắp tới các đồng chí sẽ phải vượt qua nhiều trọng điểm ác liệt, các đồng chí đã sẵn sàng lên đường chưa?

- Chúng tôi đã sẵn sàng.

Binh trạm phó nhìn khắp lượt những người lái xe. Bỗng chốc trong đầu ông hiện về những ngày chỉ huy anh em đi dọc dòng sông Son tìm xác tử sĩ, nhớ đến biển lửa trên suối Trà Ang. Cả đội chuyển tải qua trọng điểm, chỉ còn mấy người nguyên vẹn. Ông hình dung lúc những chiếc xe nhỏ nhoi này vượt qua chuỗi trọng điểm ATP. Mỗi trọng điểm đều ác liệt chẳng kém gì trọng điểm Trà Ang này. Rồi những phuy xăng kia sẽ còn thấm máu biết bao người nữa đây? Bất giác ông ôm lấy Đại đội trưởng nghẹn ngào:

- Các em đi nhé. Những phuy chở trên lưng các em không chỉ là xăng đâu. Đó còn là máu của anh em mình đấy. Các em hãy bảo trọng và cố đưa những phuy xăng hiếm hoi này đến đích.

Đại đội trưởng ôm ghì lấy ông và nói trong nước mắt:

- Chúng tôi hiểu thủ trưởng ạ. Thủ trưởng yên tâm. Còn người là mỗi phuy xăng còn được bảo vệ.

Những chiếc xe rồ ga, tự tin lao lên phía trước, khuất sau con đường rừng. Lúc đó trời chạng vạng tối.

 

 

Chương 5

TRỌNG ĐIỂM PHA BANG

 

Bom nổ gần lắm, chắc ngay trước cửa hang. Những đợt sóng xung kích dội hơi nóng vào hang đến tức thở. Những người lính bịt tai, nằm ép vào các hốc đá nhưng người vẫn bị quăng qua, quật lại. Đồ đạc đổ loảng xoảng. Vẫn là B52, nhưng lần này, tuyến vừa vận hành xong, trong ống đang đầy xăng. Dứt tiếng bom, Đỉnh lao ra khỏi hang. Lửa đang bốc lên rừng rực. Anh đóng van chặn dòng xăng. Cả phía cửa 11 của trung đội nữ, lửa cũng đang cháy đỏ cả góc trời. Hình như có bốn tiếng súng. Có chuyện rồi. Đỉnh hét lên:

- Miên, Đạt ở lại canh van. Số còn lại theo tôi về Cửa 11. Trung đội nữ có thương vong rồi.

Hôm nay là rằm, trăng đã treo trên đỉnh đầu. Đỉnh cùng năm anh em trong Tiểu đội nhảy qua những thân cây đổ, băng qua những hố bom còn khét lẹt, đạp lên những cành cây đang cháy dở. Họ chạy, vấp, lại đứng dậy, chạy. Trăng ơi, đừng vào mây nhé, hãy soi sáng đường cho bọn tôi mau đến đó. Các em sao rồi? Lan ơi, em có sao không? Hãy vì anh mà đừng làm sao nhé. Ráng đi, bọn anh đến ngay bây giờ đây.

Khi nhóm của Đỉnh đến, thì van cửa 11 đã được đóng lại, nhưng xăng từ ống đang chảy vào hố bom. Lửa vẫn đang rừng rực cháy. Không khí nóng ràn rạt và tức thở. Đỉnh nhào tới:

- Lan ơi, các em đâu rồ... ồi?

Có ba phát súng trên tuyến ống phía trước. Đỉnh cùng anh em chạy về phía đó. Lan đang chỉ huy băng bó cho mấy em bị thương:

- Cái Thoan hy sinh rồi. Bọn em vừa chuyển được mấy đứa bị thương về đây. Các anh giúp chúng em chuyển các em ấy đến trạm phẫu thuật.

Hai cô gái nằm thiêm thiếp, băng quấn trắng người. Một cô thấy các chàng trai đến, òa khóc:

- Các anh ơi, em bỏng ở mặt rồi. Không biết mặt em sẽ ra sao các anh ơi.

- Em yên tâm, rồi sẽ khỏi, rồi em lại xinh đẹp như xưa thôi mà.

Đỉnh an ủi vậy, nhưng trong lòng nhói đau. Cái Hoa trẻ nhất trung đội, khuôn mặt trắng trẻo, xinh xắn như búp bê, lúc nào cũng nhí nhảnh, không hiểu vết bỏng này sẽ để lại di chứng gì trên khuôn mặt em đây. Cùng lúc đó, mấy cậu ở cửa 12 cũng chạy đến. Họ chia nhau cáng hai cô gái đến trạm phẫu thuật. Đỉnh cùng Lan và mấy cô gái chôn cất cho Thoan. Mới chiều nay còn cùng nhau ăn mừng xăng vào bản Cọ. Vậy mà bây giờ, Thoan đã mãi nằm lại đây. Mấy cô gái vừa lấp đất lên mộ, vừa khóc: Thoan ơi, cái gương, cái lược đây. Đi sang bên ấy đừng quên soi gương chải lược như mọi ngày nhé. Mộ của Thoan nằm trên triền dốc cạnh con đường họ vẫn thường đi. Những quầng lửa hắt lên trời màu đỏ ngột ngạt khiến ánh trăng rọi lên ngôi mộ trinh nữ trở nên buồn bã, xót xa.

Trên đường từ mộ Thoan về lán, Đỉnh bỗng thấy Lan khựng lại, rồi đổ vật xuống. Anh hốt hoảng:

- Lan ơi, em làm sao vậy?

- Chắc chị ấy kiệt sức rồi - Một cô gái nói - ba ngày liền sốt li bì, vừa rồi chị ấy bị ngất vì sức ép, tỉnh dậy, lại cứu chữa chị em.

Đỉnh cõng Lan vào lán. Cô vẫn nằm thiêm thiếp, hơi thở yếu ớt. Cậu y tá tiêm cho Lan một ống thuốc mà cậu ấy bảo đây là thuốc tăng lực. Họ xoa dầu lên hai thái dương cô gái. Khi Lan tỉnh lại, trước mặt cô là những gương mặt đồng đội thân thương. Sao các em lại khóc. Chị có sao đâu. Mấy đứa bị thương thế nào rồi. Chúng nó được cứu chữa kịp thời, tạm ổn rồi chị ạ. Lan nhận ra bàn tay mình đang nằm trong bàn tay ấm áp của Đỉnh. Cảm ơn anh nhiều lắm. Những lúc này có anh ở bên, em chẳng còn thấy lo lắng gì nữa. Những hình ảnh hiện ra trước mắt Lan lúc rõ, lúc nhạt nhòa, rồi cô lại chìm vào giấc ngủ nặng nề.

Lan ơi. Em đã mệt lắm rồi. Hãy nằm nghỉ em nhé. Anh đang ngồi bên em đây. Đỉnh xót xa vuốt mớ tóc rủ lên trán Lan, giờ đã khô cứng vì bết bùn đất. Mới đó mà mình đã quen nhau được bốn tháng rồi. Sau cái lần anh và Hiến mang bao gạo cho trung đội gái, cả hai chúng mình đều nhận ra không thể thiếu nhau trong cuộc đời. Mỗi ngày không được nghe tiếng em qua đường dây một lần là anh bồn chồn lo, bồn chồn nhớ. Em đã từng bất chấp hiểm nguy trên tuyến đường qua trọng điểm, đến thăm anh khi biết anh lên cơn sốt rét. Khi chỉ còn hai đứa mình, mặc dù giữa cơn sốt, anh vẫn cảm nhận được hạnh phúc thần tiên từ nụ hôn của em. Em nhớ cái hôm anh mang giò phong lan vừa tìm thấy trong rừng đến cho em không? Giò phong lan đẹp quá nên anh gọi điện báo cho em rồi mới lên đường. Ai ngờ hôm ấy, chúng nó ném bom tọa độ lên tuyến, đúng đoạn đường anh đang đi. Cũng may loạt bom nổ cách anh mấy chục mét nên anh thoát chết, nhưng giò phong lan thì bị đất đá rơi lên, tơi tả. Ác liệt nguy hiểm thế mà em cứ một mình chạy trên tuyến, vừa gọi tên anh vừa khóc. Khi gặp anh, em đã quỵ xuống vì kiệt sức. Anh ôm chặt em vào lòng. Quần áo em đẫm mồ hôi. Chắc em đã chạy, đã ngã nhiều lần nên cũng bê bết đất. Đôi dép cao su đã vứt đi lúc nào mà chân em bật máu. Em ôm chặt lấy cổ anh, ép người vào vồng ngực đầy đất và chưa hết khói bom của anh như sợ có ai mang anh đi mất. Trời ơi. Cả đời anh sẽ không bao giờ quên được tiếng nấc của em hôm ấy. Nó bung ra từ sự dồn nén lo lắng, tủi hờn. Em khóc thương anh, giận anh. Suýt nữa thì em mất anh. Những lúc như vậy, mình cảm thấy đã là máu thịt của nhau. Cứ mỗi lần nghe tiếng bom ở phía cửa 11 là lòng anh quặn thắt. Ở nơi ác liệt này, chẳng biết sống chết ra sao, mà em thì bao giờ cũng nghĩ đến bạn trước khi nghĩ đến mình. Em là chị cả của trung đội nữ này, nhưng tuổi cũng chỉ mới hai mươi mốt. Đêm nay em đã kiệt sức vì cứu xăng và cứu bạn, vậy mà dưới ánh đèn dầu hắt ra từ cái hốc đào vào vách đất, trông em vẫn đẹp như một nàng tiên. Anh cảm ơn cuộc sống gian truân này đã cho anh được gặp em, được yêu em và được em yêu.

Lan tỉnh dậy khi tiếng những con chim đầu tiên ríu rít hót trước hiên nhà. Đầu nặng trịch và toàn thân đau như dần. Đỉnh gục đầu lên giường cô ngủ từ lúc nào. Bàn tay cô vẫn nằm trong tay anh. Tội nghiệp anh, suốt đêm qua vất vả. Cô kẽ xoa lên mái tóc đã khô cứng như rễ tre bởi mồ hôi và đất. Đỉnh mở mắt. Sao em lại khóc. Em không thấy anh vẫn khỏe mạnh đây sao. Thôi, anh hãy về đi kẻo các bạn chờ. Mấy em ở đây sẽ chăm sóc cho em. Lan nói vậy, nhưng Đỉnh nhận ra không chỉ mình Lan, mà các cô gái khác trong trung đội cũng đang vùi vào giấc ngủ nặng nhọc sau một đêm căng thẳng và kiệt sức. Anh ra suối gánh đầy phi nước, nấu nồi cháo để các cô gái dậy ăn cho lại sức.

Đỉnh rời khỏi lán trung đội nữ khi mặt trời đã nhô lên đỉnh núi. Trận B52 đêm qua lại đào thêm những hố bom mới chồng lên các hố bom cũ. Trên chiều dài hơn bốn cây số, chiều ngang từ lèn đá nơi Tiểu đội canh van của anh ở sang đến tận lèn đá phía nam sông, là một vùng chết chóc. Đâu còn nữa cánh đồng, làng bản, những rừng cây săng lẻ xanh ngút ngát. Đâu còn những đêm mắc võng bên dòng sông Sê Bang Hiêng lấp lánh ánh trăng mà mơ mộng. Đủ các loại bom đạn đã dội xuống đây suốt ngày đêm. Những đại thụ có lẽ đã hàng trăm tuổi bị bom chặt đổ, rồi lớp bom đạn khác nối nhau băm cho chúng nát thành những mẩu nhỏ, trộn lẫn với đất đào lên từ hố bom, rồi lại bị cháy, bị nung nóng bằng những lớp bom đạn khác. Cái quy trình khủng khiếp ấy chỉ mới mấy tháng nay, mà đã làm cho đất ở Pha Bang ngả sang màu đen xám. Không phải tiếng gầm rít của lũ máy bay phản lực bổ nhào ném và bắn đủ thứ bom đạn xuống trọng điểm, thì tiếng vo ve của chiếc Tàu Càng tuần đường như cú vọ, để rồi lại đạn cối, đạn khói chỉ điểm, rồi lại rốc két, bom đủ loại. Những khi trọng điểm yên tĩnh lại là những lúc báo hiệu sự chết chóc sắp bất chợt ập xuống. Có thể là một chùm bom tọa độ, có thể là một trận bom rải thảm của B52. Bởi vậy mà bầu trời Pha Bang lúc nào cũng mịt mù khói bụi. Trên con đường 18, đường ngắn nhất từ hậu phương lớn miền Bắc đến tiền tuyến lớn miền Nam, Pha Bang như một yết hầu dễ dàng bóp chặt, vì đây là khúc hẹp mà đường ô tô buộc phải lách qua giữa một vùng núi đá chập chùng hiểm trở. Giữa vùng chết chóc, tưởng như không thể có một sự sống nào tồn tại ấy, những người lính công binh, cao xạ và đường ống vẫn bám trụ kiên cường. Họ ở trong các hang đá, hốc đá. Họ đào hầm chữ A dày đặc trên trọng điểm để họ và cánh lái xe trú ẩn khi bom đánh. Khẩu đội pháo phòng không một trăm mi li mét giấu trong một hang đá đã chọn được một vị trí có thể bắn máy bay địch, hất chúng lên cao, bảo vệ cho các đoàn xe. Thậm chí, anh từng được chia vui với mấy cậu bên cao xạ khi có thông báo từ trên xuống: trong những viên đạn của họ bắn lên, đã có viên làm bị thương máy bay B52. Biết bao xương máu đã đổ lên trọng điểm này: Lính công binh ngã xuống khi đang khôi phục lại đường. Những chiếc xe bị thiêu cháy khi vượt qua trọng điểm. Mấy hôm trước, anh đã cùng anh em công binh mai táng cho Trần Nhãn, một anh hùng lái xe quân đội. Nhãn là một lái xe dũng cảm, dày dạn kinh nghiệm, đã đưa biết bao chuyến hàng vượt qua các trọng điểm ác liệt. Trên tuyến lửa Trường Sơn này, sự sống sót không chỉ dựa vào mưu trí và lòng dũng cảm, mà còn phải có may mắn. Chuyến xe chở thuốc nổ của Nhãn vượt Pha Bang lần này đã trúng một trái bom. Không chỉ bom nổ, mà cả khối thuốc nổ trên xe cũng là một trái bom. Những mảnh thi thể của Nhãn được gom lại và mai táng trên một triền đồi. Những người lính công binh đã lấy một mảnh nhôm ống pháo sáng, trân trọng đục lỗ thành chữ: Anh hùng lái xe Trần Nhãn, hy sinh ngày... Lính đường ống cũng không ít người đã hy sinh trên trọng điểm trong quá trình thi công. Đỉnh hiểu rằng từ nay, khi đã bơm xăng trong ống, thì cuộc chiến đấu  sẽ ác liệt lên bội phần.

 

Hôm nay là ba mươi Tết. Quang Trung cùng ngồi uống ly rượu tất niên với Lê Trọng và đoàn cán bộ Tổng cục trước khi họ cùng lên đường dự một cuộc họp quan trọng do Bộ Tư lệnh 559 triệu tập. Bữa tiếp khách của Binh trạm trưởng khá thịnh soạn vì có đĩa thị gà và thịt lợn tăng gia của bếp Binh trạm bộ. Ở Trường Sơn, khi có điều kiện, đơn vị nào cũng cố gắng tìm đất trồng rau và nuôi gà, nuôi lợn để cải thiện đời sống. Lê Trọng rất cảm động vì sự tiếp đón của Binh trạm 90. Thế mà đã một tháng kể từ ngày ông và phái đoàn của ông vào giúp Binh trạm nghiên cứu việc xây dựng tuyến từ Q5 vào đến đường số 9. Đi cùng ông là những kỹ sư đã dày dạn kinh nghiệm trên tuyến X42 và tuyến Hướng Tây. Kết quả vận hành xăng từ Q200 vào đến bản Cọ làm cho Quang Trung hết sức phấn khởi. Sẽ qua đi cái thời hàng chục xe vận tải của Binh trạm phải nằm im vì không có xăng. Tuyến trong kêu thiếu gạo và đạn, trong khi gạo và đạn lại cứ phải nằm chết gí trong kho, bất kỳ lúc nào cũng có thể bị  bom địch cày tung lên. Quang Trung nâng ly rượu:

- Chúng ta uống ly này mừng cho thắng lợi của bộ đội đường ống.

Lê Trọng nâng ly:

- Sao lại chỉ là của bộ đội đường ống? Của chúng ta chứ. Để xăng vào đến bản Cọ, không ít xương máu của bộ đội Binh trạm 90 đã đổ lên tuyến ống. Xin chúc mừng Binh trạm trưởng. Từ nay trong đội hình Binh trạm có thêm một binh chủng mới.

Họ cạn ly. Trên tuyến lửa Trường Sơn suốt ngày bom đạn và hy sinh, thật hiếm hoi có những phút thư giãn như thế này. Quang Trung tâm sự:

-  Tôi hỏi anh điều này nhé. Nghe nói Liên Xô chỉ viện trợ cho mình vài trăm cây số đường ống mà sao bây giờ mình có đường ống từ Vinh vào đến tận trong này, rồi liệu có còn ống để đi tiếp vào trong không, vì từ đây vào đó còn gian truân lắm.

- Anh nói rất đúng. Ngay từ tuyến Hướng Tây, vấn đề này đã đươc đặt ra. Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện nhìn ra vấn đề rất sớm, nên đã giao cho các viện, các trường đại học, các nhà máy cùng nghiên cứu sản xuất. Cho đến nay, Việt Nam chúng ta đã sản xuất được mọi thứ của bộ đường ống dã chiến. Hiềm một nỗi, các sản phẩm của mình vừa nặng, vừa không bảo đảm chất lượng để lắp ráp và vận hành trong điều kiện địa hình phức tạp và chiến đấu ác liệt. Rất may, sau khi thấy ta thành công ở X42 và tuyến vào đến Na Tăng, Liên Xô đã tiếp tục gửi cho ta mấy bộ nữa. Ta gợi ý Trung Quốc giúp, bạn sẵn lòng, nhưng trong trang bị chiến đấu của Trung Quốc chưa có loại đường ống này, nên vừa rồi họ đã cử một đoàn chuyên gia sang đến tận đèo Mụ Giạ để nghiên cứu. Họ khâm phục mình lắm.

- Rồi họ có giúp mình không?

- Có chứ. Họ đề nghị ta cấp cho họ mỗi loại một chiếc trong số vật tư, thiết bị của bộ đường ống dã chiến Liên Xô về làm mẫu sản xuất.

- Không hiểu họ có làm kịp cho mình không. Cứ như đoạn 911 và trọng điểm Pha Bang thì ống tổn thất nhanh lắm.

- Tôi tin là họ sẽ làm rất nhanh. Mấy ông Trung Quốc này bắt chước giỏi lắm. Nói riêng với anh nhé. Liên Xô phản ứng khá gay gắt về việc ta đưa mẫu bộ đường ống dã chiến của họ cho Trung Quốc.

- Nào, chúng ta nâng ly vì tình đoàn kết của hai người anh cả trong phe Xã hội chủ nghĩa - Quang Trung nâng cao ly - Mong sao họ luôn đồng lòng và vô tư trong việc giúp chúng ta đánh Mỹ.

*

Toại kiểm tra lại lần cuối tài liệu và tư trang trước khi lên đường. Trong nhóm mười tám người, anh là người được bố trí vào cơ quan tham mưu ngay từ đầu vì khả năng tổng hợp tình hình nhanh, vẽ đẹp, chữ đẹp, cẩn thận khi xử lý các vấn đề. Anh chưa bao giờ phụ lòng các cấp chỉ huy. Quá trình thi công và vận hành đã cho Toại nhiều kinh nghiệm tốt. Vốn là một sinh viên giỏi, sáng dạ, nên dù làm tham mưu, khi cần, anh vẫn có thể đề xuất những chủ trương về công tác kỹ thuật. Lần này, Toại tháp tùng Lê Trọng vào giúp Binh trạm 90 vạch tuyến từ Q5 vào đường số 9, và sau đó, anh sẽ lên nhận nhiệm vụ ở cơ quan Bộ Tư lệnh 559. Đến Công trường 181, Toại hiểu ra rằng những người bạn của anh trong nhóm "mười tám tên" đang phải vật lộn với những cơn sốt rét rừng hành hạ, đã phải vượt qua những trận bom đủ loại, đấu trí với địch để có được tuyến vượt cao điểm 911 và trọng điểm Pha Bang. Họ đã mấy lần chôn cất đồng đội. Và bản thân họ, trong cuộc vật lộn gian khổ này, chưa thể nói trước sống chết thế nào. Được vào tuyến lửa, Toại cảm thấy nhẹ lòng, anh không phải tự áy náy vì mình đã không cùng các bạn có mặt nơi đầu sóng ngọn gió.

Đoàn xe khởi hành lúc nhọ mặt người. Quang Trung và Lê Trọng ngồi trên chiếc Gaz-69 đi đầu. Theo sau là mấy chiếc xe vận tải chở gạo và thực phẩm vào tuyến trong. Toại cùng các sĩ quan tùy tùng ngồi trên những chiếc xe đó. Những chiếc xe vận tải này đi theo kế hoạch, nhưng kết hợp hỗ trợ chiếc xe con của Binh trạm trưởng khi cần. Đêm nay là giao thừa. Tiếng bom vẫn nổ đâu đó. Pháo sáng vẫn thả sáng rực trên một số trọng điểm. Mặc dù vậy, không ai nói với ai, mọi người vẫn hy vọng từ giao thừa, sang ngày mồng một Tết, địch sẽ ngừng ném bom. Đoàn xe lắc lư, dò dẫm đi trong đêm. Mùa khô, đường không lầy, nhưng những ổ gà, ổ trâu khiến cho những chiếc xe phủ đầy lá ngụy trang không ngớt nhảy chồm, lắc lư nghiêng ngả. Đường vốn đã cheo leo, có đoạn chỉ vừa lách một thân xe, chỉ cần run tay lái là xe có thể lăn xuống vực. Đêm tối như mực, chiếc đèn gầm chỉ soi được mấy mét trước mũi xe một thứ ánh sáng yếu ớt, đủ cho người lái xe nhìn thấy chướng ngại vật, các hố bom hay vực sâu. Những chiếc xe trên Trường Sơn đi như vậy, thường chỉ dưới mười cây số một giờ. Toại ngồi trên những bao gạo, phải bám chặt vào thành xe để khỏi bị văng xuống đường mỗi khi lắc mạnh. Những chiếc xe Trường Sơn được bọc một lớp áo giáp bằng thân cây nứa đập dập để tránh được loạt bom sát thương đầu tiên. Những người ngồi trên thùng xe không hề có gì che chắn quanh mình. Họ nhìn lên bầu trời và cảm thấy mình thật trống trải. Tiếng gầm rít của máy bay mang lại cảm giác cái chết có thể ập xuống bất kỳ lúc nào...

Đêm nhích dần tới giao thừa là lúc đoàn xe vào đến khu vực trọng điểm Pha Bang. Đã không còn tiếng bom, không thấy ánh đèn dù. Dưới ánh sao, những thân cây bị đốn gãy, qua bao trận bom, giờ như những bóng đen giơ những cánh tay gầy guộc lên trời. Trọng điểm trải dài, bàng bạc, lạnh lẽo. Con đường ô tô hiện ra như một lối mòn ngoằn ngoèo mờ ảo trên thảm bụi dày, luồn lách qua miệng các hố bom. Không gian yên tĩnh lạ thường. Toại tự hỏi: Phải chăng đã đến giờ chúng nó ngừng ném bom?

Đúng lúc ấy, những chớp lửa nối nhau chạy dài trên trọng điểm. Bom nổ bốn bề. Chiếc xe khựng lại. Toại lăn từ trên xe xuống một hố bom. Trong ánh chớp bom sáng rực, Toại phát hiện ra một căn hầm chữ A. Anh cố nhoài người vào trong hầm. Căn hầm như đưa võng, đất rơi rào rào. Bom B52. Hình như trung tâm trải thảm nằm phía trước đoàn xe. Vậy là năm nay đã không có chuyện Mỹ ngừng ném bom đêm giao thừa và mồng một Tết.

Có tiếng súng báo thương vong ở phía trước. Toại chạy lên. Chiếc Gaz-69 đang đứng bên miệng một hố bom. Đất rơi đầy trên nóc xe và ca pô. Mấy anh lính cũng vừa tới.

- Chúng tôi ở cửa 10 đường ống, đến để giúp các thủ trưởng.

Anh lái xe và Lê Trọng đang đỡ Quang Trung ra khỏi xe:

- Đây là đồng chí Quang Trung, Binh trạm trưởng Binh trạm 90. Anh ấy có thể đã hy sinh vì bị gục trên ghế từ loạt bom đầu. Các đồng chí chuyển ngay đến nơi an toàn và kiểm tra giúp.

- Hiến, Miên khẩn trương lên. - Tiếng người lính cao to như ra lệnh.

Họ cáng Quang Trung vào hang. Quang Trung vốn to béo, nên khá nặng. Đường gập gềnh vì các hố bom. Những thân cây vốn đã cháy đen, nay lại bị phạt ngang lưng đổ xuống chắn lối, trời tối nên họ đi rất khó khăn. Nơi Quang Trung bị thương chỉ cách hang đá của Tiểu đội canh van hơn một trăm mét mà phải mất nửa giờ mới tới. Đỉnh, anh chàng cao lớn, Tiểu đội trưởng hướng dẫn mọi người lách qua khe hẹp để vào hang. Họ đặt Quang Trung nằm trên chiếc sạp ngủ, và kiểm tra lại. Binh trạm trưởng bị một mảnh bom xuyên vào đầu, chắc ông đã hy sinh ngay lúc đó. Đúng là ở chiến trường, sống chết như có số vậy. Bốn người ngồi trên xe, chỉ có Quang Trung trúng bom, mọi người khác không hề bị thương, kể cả Lê Trọng ngồi ngay phía sau ông.

Lát sau, Đại đội trưởng công binh xin gặp Trọng:

- Báo cáo thủ trưởng, có vài hố bom trúng đường, chúng tôi đã khắc phục. Đề nghị thủ trưởng cho xe thoát nhanh qua trọng điểm.

Lê Trọng dặn:

- Toại ở lại cùng anh em, chờ cán bộ Tiểu đoàn và Binh trạm, lo mai táng cho anh Quang Trung. Mọi người khẩn trương lên đường.

Mờ sáng, họ đưa Quang Trung đi mai táng. Đỉnh đã cẩn thận lấy đinh đục lỗ vào một miếng nhôm vỏ pháo sáng làm bia mộ: Trung tá Quang Trung, Binh trạm trưởng Binh trạm 90, hy sinh ngày 5-2-1970. Trần Đình kịp đến dự mai táng Quang Trung. Ông tần ngần đứng trước mộ người thủ trưởng mà ông luôn kính trọng và yêu mến. Trong ông hiện về hình ảnh Binh trạm tưởng vượt qua bãi bom B52 đến Tiểu đoàn, thăm hỏi thương bệnh binh và bàn cách để đường ống vượt qua cửa tử. Quang Trung - người chỉ huy cao nhất trên một cung đường vận tải chiến lược, người nổi tiếng là quả cảm, có mặt ở những nơi gian khổ, ác liệt nhất, hy sinh, là một tổn thất lớn cho Đoàn 559. Ngôi mộ của viên Trung tá nằm cùng những ngôi mộ những người lính đã ngã xuống trọng điểm Pha Bang. Những ngôi mộ cũ có, mới có, đặt trên triền đồi, nhìn về phía trọng điểm hoang tàn, không mấy khi ngớt tiếng bom. Trần Đình đặt lên ngôi mộ một bó hoa rừng: "Xin anh yên nghỉ, và mong anh tin rằng chúng tôi sẽ làm tròn những việc mà anh thường dặn. Người này ngã xuống, sẽ có người khác tiếp theo. Tiểu đoàn 66 sẽ không bao giờ phụ lòng tin của anh lúc sinh thời". Tiếng của Trần Đình nghẹn ngào lẫn trong tiếng gió và tiếng vo ve của chiếc OV-10 đang lượn trên trọng điểm. Họ dành một phút mặc niệm người chỉ huy. Loạt đạn tiễn đưa xót xa vọng vào vách núi. Nhìn những người lính lấm lem bùn đất và khói bụi, Toại cảm thấy bây giờ anh mới thực sự nếm trải khốc liệt chiến trường. Chính trị viên Trần Đình đi bên anh buồn bã:

- Chắc những việc xẩy ra đêm qua sẽ làm anh thông cảm hơn với chúng tôi. Cả tháng trời qua, không đợt vận hành nào không bị trúng bom. Khi tuyến ống đã cháy thì chúng nó bâu lại chà xát cho tan tành mới thôi. Bao nhiêu người đã ngã xuống. Vậy mà từ cấp trên, đã có lúc thông báo xuống nhận xét lạnh lùng: "Tiểu đoàn 66 thi công chậm chạp, vận hành ì ạch".

Giờ thì Toại đã hiểu ra một điều mà người sĩ quan tham mưu ở chỉ huy sở hay ở Tổng hành dinh phải luôn tâm niệm: Phải hết sức thận trọng khi trình lên chỉ huy những lời nhận xét, đánh giá đơn vị, vì đằng sau sự đánh giá đó là xương máu và hy sinh. Sự hy sinh đâu chỉ dành cho lính. Trong cuộc chiến đấu này, bất kỳ ai cũng có thể nằm lại trên đại ngàn Trường Sơn.

 

Tất cả các kho đường ống ở Trường Sơn nếu có điều kiện, đều được thiết kế theo nguyên lý tự chảy. Thiết kế như vậy sẽ đỡ được các máy bơm hút để cấp phát hoặc để đưa xăng từ bể vào trạm bơm đầu nguồn. Không có máy nổ trong kho là một yếu tố vô cùng quan trọng để giữ được bí mật, đặc biệt là từ khi không quân Mỹ dùng máy bay AC-130 săn ô tô bằng nguyên lý hồng ngoại. Hầu như các Đại đội xe chỉ vài tháng là bị xóa sổ vì máy nổ và ống xả là nơi luôn phát ra hồng ngoại.

Các bể chứa xăng của kho đường ống trong rừng Trường Sơn thường được chôn dưới đất ở những hố khác nhau, cách nhau đủ xa để một quả bom lớn không thể phá được cùng một lúc các bể ở hai hố. Mỗi hố thường có bốn bể sắt hai mươi lăm mét khối hoặc mười mét khối, chúng được điều chỉnh cho ngay ngắn, lắp ống nối thông nhau và nối ra tuyến chính, đến nơi cấp phát hoặc máy bơm đẩy để bơm lên tuyến. Thời kỳ đầu, các bể chứa được khoét sẵn lỗ và hàn sẵn đầu ống dã chiến từ hậu phương. Bộ đội đường ống chỉ việc lắp ráp. Dần dần, việc sản xuất không kịp, người ta lấy các bể sắt đang sử dụng, hút hết xăng và chuyển vào chiến trường. Khi thi công, thợ hàn của bộ đội đường ống phải dùng hàn xì oxy-axetylen khoét lỗ vào thành bể, hàn đầu ống dã chiến để lắp ráp. Các bể chứa đang sử dụng dù nói hút hết xăng, thì trên thực tế, xăng vẫn còn khoảng một trăm đến hai trăm lít ở đáy. Nếu dùng mỏ hàn khoét lỗ, gặp hơi xăng trong bể, sẽ phát nổ. Không thể có cách nào hút kiệt xăng, những người thợ hàn đành ném lửa vào đốt số xăng đó. Khi xăng trong bể bắt lửa, một cột lửa sẽ phụt lên cao chừng ba mươi mét, và chỉ trong chưa đầy một phút, lửa lại tắt ngấm, vì số ô xy trong bể đã bị cháy hết. Muốn đốt tiếp. Lại phải chờ dăm phút cho không khí vào. Trên thực tế, mỗi lần ném lửa vào bể, chỉ đốt được một lượng xăng không đáng kể. Qua nhiều lần làm như vậy, họ phát hiện ra rằng: sau khi lửa tắt, nếu liên tục ném lửa vào thì xăng còn lại trong bể  sẽ không thể cháy vì thiếu oxy. Đó là lúc có thể đưa mỏ hàn khoét vào thành bể. Sáng kiến này rất mạo hiểm, nhưng trên thực tế, những người thợ hàn đã làm được. Có những lỗ, sau khi khoét xong, mới thấy xăng mấp mé ở miệng lỗ khoét. Để có thể hàn tiếp, phải múc bớt số xăng đang đọng ở đáy bể. Thời gian múc xăng làm cho bể  nguội lại. Lúc đó, nếu ném lửa vào, sẽ có hai luồng lửa khoảng ba chục mét phụt qua miệng bể chứa và qua lỗ mới khoét. Đây là thời điểm nguy hiểm nhất, vì ở dưới hố, luồng lửa phụt ra từ lỗ khoét không có lối thoát, sẽ trùm kín hố bể. Bởi vậy, phải kiểm tra để chắc chắn không còn ai dưới hố bể mới bắt đầu ném lửa. Trước khi ném lửa, người ném lửa phải hô lớn: "Còn ai ở dưới hố nữa không?". Khi chắc chắn không có người mới được ném lửa vào bể. Đó là một đòi hỏi rất nghiêm ngặt. Quy trình tiếp theo sẽ lại như trước. Sau khi lửa tắt, lại tiếp tục ném lửa vào, không cho ô xy xâm nhập để thợ hàn hàn đầu ống vào thành bể.

Kho Q6 được đặt trên một quả đồi cách đường số 9 chừng một cây số về phía bắc. Từ đây, xăng được dẫn ra một bãi cấp phát kín đáo sát đường 9, tiện cho xe ra vào. Kho Q6 có năm hố, mỗi hố đặt bốn bể sắt. Việc hàn đầu ống vào các bể an toàn, trôi chảy ở bốn hố đầu tiên. Ở hố cuối cùng, sau khi múc bớt xăng trong bể, Ngọc xuống hố kiểm tra lỗ khoét trước khi hàn đầu ống. Anh vừa đứng dậy, định trèo lên khỏi hố thì nghe một tiếng nổ và bỗng chốc bốn bề là lửa. Ngọc không còn nhìn thấy gì ngoài tiếng ràn rạt của luồng lửa đang táp vào mặt. Anh giơ tay che mặt, chạy lao về phía bậc, lấy hết sức nhảy thoát lên, lăn hai vòng trên cỏ để dập tắt những ngọn lửa đầu tiên đã lém vào quần áo. Người làm nhiệm vụ ném lửa đã bất cẩn, không kiểm tra trước khi ném lửa trở lại.

Mọi người xúm lại dìu Ngọc lên cabin chiếc xe vận tải, chạy vào quân y viện. Anh thấy mặt và chân tay đau rát. Nhìn xuống chân, lớp da đen cháy trợt ra, để lộ từng mảng đỏ hỏn. Toàn thân mệt rã rời. Mấy đứa trẻ Lào theo bố mẹ vào bệnh viện nhìn thấy anh, hét lên bỏ chạy. Mình khủng khiếp thế sao? Ngọc tự hỏi khi bám vào hai người bạn dìu vào phòng cấp cứu. Một vài người nhìn anh, nói với nhau: Bị bỏng nặng quá, tội nghiệp, cậu ấy còn quá trẻ. Ngọc sờ lên mặt, lớp da mặt đã phồng lên từng đám. Rất may, anh đã thoát nhanh ra khỏi biển lửa nên những chỗ có quần áo chưa kịp bị bỏng. Bác sĩ thấy anh vẫn tỉnh táo thì tỏ ra hài lòng:

- May quá, vết bỏng ở mặt chưa quá sâu, nhưng tay và chân thì phải băng lại.

- Xin bác sĩ băng riêng ngón cái và ngón trỏ tay phải để tôi còn có thể viết - Ngọc đề nghị.

- Viết thư về nhà phải không?

- Mong bác sĩ thông cảm. Tuy bị bỏng, nhưng tôi còn tỉnh táo. Tôi thích đọc và học nên chắc phải viết nhiều.

- Đúng là một thương binh có ý chí. Chúng tôi sẽ tạo điều kiện cho anh.

Cô y tá có cái tên Thanh Tú rất cẩn thận và khéo léo băng bó cho Ngọc. Tay chân băng trắng, nhưng Ngọc vẫn có thể giở sách, học tiếng Nga, tiếng Lào và viết. Ngọc đề nghị cô cho mượn cái gương. Tú tần ngần:

- Anh đừng soi, vì sau khi điều trị, anh lại đẹp trai thôi mà.

- Bạn yên tâm đi. Tôi chỉ coi cho biết thôi, không bi quan đâu mà sợ.

Thật tình, Tú tin anh chàng này không phải là người bi quan, vì cái cách anh ta đề nghị băng tay sao cho có thể viết được, đủ biết anh là người có nghị lực. Nhưng cô cũng thấy ái ngại nếu để anh nhìn thấy khuôn mặt hiện giờ của bản thân, vì trông cũng ghê thật. Ngọc thuyết phục mãi, cô đành mang chiếc gương nhỏ của mình đến. Đã chuẩn bị tinh thần rồi mà Ngọc vẫn kinh hoàng. Khuôn mặt của mình thế này ư: Lông mi, lông mày cháy trụi, cả khuôn mặt đen sì, phình to ra như cái xoong, những vết nứt, những bọng nước, một vài chỗ dịch đã rỉ ra. Rồi cuộc đời mình sẽ đi về đâu? Biết tâm trạng của Ngọc, Tú an ủi:

- Vết bỏng ở mặt anh chưa sâu, trông kinh vậy thôi, nhưng không đến nỗi thành sẹo rõ đâu. Em sẽ tìm nghệ cho anh bôi vào những chỗ lên da non.

Ngọc cảm ơn cô y tá, nhưng vẫn không sao xua đi được cái cảm giác buồn, trống trải. Cô ấy nói vậy thôi. Mình đã nhìn thấy khuôn mặt của những người bị bỏng xăng, bỏng na pan. Chao ôi, nếu khuôn mặt mình cũng như thế? Nhưng rồi trấn tĩnh lại, anh tự hỏi: Buồn và bi quan thì khuôn mặt có khá hơn không? Một khuôn mặt xấu xí, nhưng lạc quan và tự tin thì vẫn đáng sống ở trên đời lắm chứ. Huống chi vẫn có thể hy vọng vì bác sĩ nói vết bỏng ở mặt chưa sâu. Giường bên, người thương binh vẫn trùm chăn khóc. Anh nấc rung cả tấm ván nằm. Có lúc, Ngọc nghe thấy trong tiếng nấc là lời nghẹn ngào đau đớn: "Mẹ ơi, con không thể trở về giúp gì cho mẹ được nữa rồi, con thành gánh nặng của mẹ già rồi, mẹ ơi". Ngọc đến bên giường người thương binh, lấy bàn tay đang băng trắng xóa vỗ nhẹ lên chăn:

- Anh bạn ơi, anh bị thương thế nào?

Một mỏm cụt cánh tay băng trắng kéo chăn ra, rồi thêm một mỏm cụt nữa. Người thương binh đã cụt cả hai tay. Khuôn mặt trắng bợt, hốc hác, nhưng vẫn chưa mất đi nét thanh tú. Đôi mắt anh ta mở to nhìn Ngọc. Anh ta nhận ra một khuôn mặt đen sì, sưng to như cái xoong Tiểu đội, với những bọng nước sần sùi, gớm ghiếc, chân tay cũng băng trắng xóa. Người thương binh ngừng khóc. Chắc anh ta thấy người bạn nằm cạnh mình cũng có nỗi buồn riêng.

- Tôi là đặc công. Hôm thực tập phá pháo trước khi vào trận. Không hiểu sao, khi áp quả bộc phá vào pháo, giật nụ xòe, quả bộc phá lại phát nổ ngay, nên ra nông nỗi này đây. Giờ anh tính cuộc đời còn đáng sống không. Mẹ tôi già lắm rồi. Nhà thì nghèo, chị đã đi lấy chồng xa. Giờ tôi trở về, chẳng những không giúp gì được cho mẹ, mà lại trở thành gánh nặng cho cụ. Đã vài lần tôi chạy ra vách đá, tính lao đầu xuống đó chết quách cho xong. Chết như vậy, mẹ chỉ buồn một lần thôi, nhưng không phải gánh nặng hầu hạ thằng con tàn phế này. Mấy lần ấy, người ta đều kịp kéo tôi lại. Giờ thì họ canh chừng tôi khá cẩn thận.

- Phải cố mà sống anh ạ. Anh trông tôi đây này, cũng có ra hồn người nữa đâu. Anh sống, dù sao mẹ cũng mừng là có con trở về, đỡ cô quạnh tuổi già. Trông anh đẹp trai thế này chắc chắn sẽ có người yêu thương tình nguyện làm dâu, vậy có phải cụ vẫn có người đỡ đần không? Còn nếu anh tự tử, người ta liệu có báo về địa phương anh là liệt sĩ không? Lúc đó nỗi đau của mẹ lớn lắm.

Xem ra những lời Ngọc lọt được vào tai anh bạn phần nào. Ngọc hiểu rằng: cho dù hậu quả những vết bỏng này tệ hại đến đâu thì mình vẫn còn nguyên vẹn chân tay và đôi mắt, không thể so với sự mất mát của anh ta, nhưng lời của Ngọc sẽ dễ vào hơn những sự động viên suông, vì ở thời điểm này, Ngọc và anh là cùng cảnh ngộ. Từ hôm đó, Ngọc và anh bạn mới tên Hoàng ấy trở nên gắn bó. Khi bắt đầu đi lại được, Ngọc thường rủ Hoàng đi dạo quanh bệnh viện, giúp anh ta đi vệ sinh, đi tắm. Bệnh viện dã chiến là nơi đầu tiên tiếp nhận thương binh. Có hôm, từ tuyến ống, người ta cáng vào một người lính dẫm phải mìn lá. Anh ta không chỉ cụt một bàn chân, mà khi ngã xuống, lại chống tay vào một quả khác, khiến một bàn tay cũng bị xé tan. Những mạt thủy tinh từ hai trái mìn lá găm sâu xuống da khiến cơ thể, tay, chân và mặt anh xanh đen như bôi mực. Mấy cô gái khiêng anh vào vừa đi vừa khóc: Trời ơi. Sao cứ bắt những người con trai đẹp bị chết, bị thương. Anh ơi, sao mà anh khổ thế này. Nhìn cảnh ấy, Ngọc cảm thấy nghèn nghẹn nơi cổ họng, và có lẽ chính những cảnh ấy khiến Hoàng hiểu ra rằng sự mất mát trong chiến tranh thật là không có giới hạn, và mình chưa phải là giới hạn cuối cùng. Hôm rời bệnh viện ra hậu phương, Hoàng dang đôi tay cụt ôm lấy Ngọc:

- Thôi, ở lại mà điều trị cho khỏi nhé. Tôi sẽ về với mẹ già, tôi sẽ cố gắng để sống.

Ngọc tần ngần nhìn theo Hoàng. Chàng trai cao và mảnh dẻ, dáng đẹp lạ thường. Nếu hắn không bị cụt hai tay, chắc chắn sẽ có nhiều cô gái chết mê chết mệt.

Vết bỏng tên mặt, trên tay Ngọc lành dần. Những bọng nước trên mặt có chỗ tự khô, có chỗ dịch chảy ra rồi khô. Những lớp da cháy đen tróc dần, để lộ ra lớp da non đỏ hỏn. Tú rất tích cực chạy đi tìm nghệ, giã ra, đưa Ngọc bôi lên chỗ đang lên da non. Cô cứ  âm thầm làm như một phận sự, không nói gì với mọi người. Cô dặn Ngọc không được tự ý bóc lớp da bị bỏng, mà hãy để nó tự rụng xuống. Từ khuôn mặt sưng to như cái xoong, bây giờ Ngọc đã có một khuôn mặt gầy guộc, đen đúa với những mảnh da bị đen cháy đang chờ rụng. Vết thương trên tay cũng đang lên da non, các ngón tay được giải phóng. Chỉ còn một vài vết bỏng sâu ở bàn chân vẫn chưa lành.

 

Một trận tập kích bất ngờ vào một thung lũng rậm rạp nhiều đơn vị đóng quân, khiến hàng chục người hy sinh và bị thương. Trong một buổi sáng, thương binh liên tục được chuyển vào bệnh viện. Thương binh nhiều quá, những người sắp khỏi và thương binh nhẹ được huy động giúp bệnh viện một số việc. Ngọc được giao dìu một anh thương binh mù đến giường bệnh. Người thương binh không có băng ở mắt, mà chỉ băng ở đầu, vậy mà hai mắt anh không còn nhìn thấy gì nữa. Ngọc đỡ anh ngồi xuống giường. Anh ta không nói gì, chỉ ngồi thở dài, hai hàng nước mắt lặng lẽ chảy. Ngọc đưa ca nước cho anh:

- Anh thấy trong người thế nào?

- Mù rồi. Tôi mù rồi.

- Nhưng sao không thấy vết thương ở mắt?

- Bom nổ, tôi lao xuống hầm. Nhưng vừa đến miệng hầm thì có một vật gì đó đập rất mạnh lên đầu, tôi ngất đi. Tỉnh lại thì thành thế này đây.

Ngọc đỡ anh nằm xuống. Chẳng có một lời an ủi nào vợi bớt nỗi đau khổ của một người bỗng chốc phải vĩnh viễn sống trong bóng tối. Người thương binh không nói gì. Ngọc để yên cho anh ta chìm vào thế giới riêng của mình.

Thương binh nằm la liệt. Không đủ ván nằm, một số phải nằm võng mắc giữa các cột. Ngọc đang lách giữa những chiếc võng đan chéo nhau, bỗng nghe tiếng gọi:

- Ngọc ơi, lại đây tớ bảo.

Có ai đó vẫy anh từ một góc tối của lán. Ngọc đến gần, hóa ra là Thuân, người lính thông tin mà Quang đã từng kể cho anh nghe cái gọi là "học thuyết phủi đít đứng dậy". Ngọc còn nhớ, có một lần thấy mấy chàng trai, cô gái Lào đang cười nói, tình tứ với nhau, Thuân chỉ họ, giọng khinh miệt: "Các cậu xem, chúng nó mọi rợ thế mà cũng biết yêu kìa". Ngọc bỗng cảm thấy ghê sợ con người này. Lại nhớ đến cái học thuyết "phủi đít đứng dậy" của anh ta, Ngọc nhìn thẳng vào Thuân: "Họ có cả một nền văn hóa hàng ngàn năm. Cái cách họ tỏ tình với nhau còn văn hóa gấp ngàn lần một số người tự cho mình là văn minh đấy". Hôm ấy, có lẽ hiểu ra điều gì đó, Thuân im lặng không nói gì.

- Anh Thuân vào viện vì sao đấy?

- Sốt rét. Cậu vào được mấy ngày thì tớ vào. Giờ hết sốt rồi, nhưng lại bị một bệnh rất trầm trọng.

- Bệnh gì vậy anh?

- Cậu nhìn đây - Anh ta chỉ lên chiếu, một đống nhầy nhầy đục đục - Tinh dịch đấy, tớ bị di tinh. Suốt ngày nó cứ tuôn ra. Cậu được các y bác sĩ quý, vì tớ thấy cậu được biểu dương là thương binh có nghị lực. Cậu nói giúp các ông ấy cho tớ ra Bắc được không?

Ngọc cảm thấy ghê tởm, vì bất kỳ bác sĩ nào đi qua, anh ta đều nói: "Tôi bị di tinh, xin các bác sĩ cho tôi ra Bắc chữa". Anh nói với Thuân: "Tôi không có danh phận gì trong việc này, nhưng tôi sẽ hỏi giúp anh". Khi Ngọc hỏi bác sĩ Chủ nhiệm khoa, viên bác sĩ phác một cử chỉ khó chịu: "Việc ấy anh cứ để chúng tôi nói chuyện với anh ta".

 

Ngày hôm sau, Ngọc lại đến thăm người thương binh mù. Khi Ngọc ngồi xuống giường, anh ta quờ tay lên vai anh:

- Có phải hôm qua anh dìu tôi vào đây không?

- Vâng. Tôi vừa qua chỗ bác sĩ, họ bảo trường hợp của anh chưa phải hoàn toàn vô vọng đâu. Theo thời gian, kết hợp với điều trị, có thể vẫn nhìn được.

- Thật thế không - người thương binh như reo lên - Vậy là tôi còn hy vọng phải không? Tôi muốn viết thư về cho mẹ quá, hiềm một nỗi, có nhìn thấy gì đâu.

- Tôi sẽ viết giúp anh.

Người thương binh quờ tay tìm ba lô:

- Trong ba lô tôi có giấy bút đấy.

Ngọc lôi từ ba lô ra một cuốn sổ, ở trang đầu dán tấm ảnh một cô gái, với dòng chữ nắn nót: Em mãi chờ anh.

- Cô gái xinh quá. Người yêu anh à?

- Vâng. Khi nào nhớ cô ấy, tôi lại viết nhật ký.

- Sao không viết thư cho cô ấy?

- Tôi chưa biết rồi đây sẽ ra sao nên chưa muốn báo tin. Anh xé từ cuốn sổ  một tờ giấy, viết thư giúp tôi. Mẹ yêu quý. Hôm nay con bị thương nên không thể cầm bút viết thư cho mẹ được. Con đọc để một anh bạn ghi giúp. Con nhớ mẹ lắm. Mẹ ạ, trong trận bom vừa rồi, không may con bị thương, hai mắt không nhìn được nữa. Dù vậy, con vẫn thấy trong lòng phấn khởi...

Ngọc dừng bút:

- Có thật anh phấn khởi không? Theo tôi, cái việc mình bị mù đã làm mẹ đau lắm rồi, nên nói gì cho mẹ yên lòng hơn. Chẳng hạn như ý bác sĩ mà tôi vừa nói với anh.

- Đúng rồi - Anh viết tiếp nhé. Bác sĩ bảo đôi mắt của con hôm nay không nhìn được là do chấn thương, nhưng theo thời gian, vẫn có thể hồi phục. Con mong đến ngày chữa khỏi, con sẽ về chăm sóc mẹ.

Người thương binh bỗng im bặt, rồi òa khóc.

- Thôi, đừng viết nữa. Khi tôi nhập ngũ, mắt mẹ đã mờ, cách đây mấy tháng, tôi nhận được tin mắt mẹ mù hẳn rồi. Trời ơi. Cái vùng biển Quảng Bình chỉ có nắng, gió và cát như quê tôi thì hai mẹ con mù biết sống ra sao đây!

Anh ta cứ bưng mặt khóc nấc. Ngọc không ngờ ý định viết thư của anh lại dẫn đến nỗi đau sâu hơn. Người thương binh mù quờ tay tìm lá thư viết dở, vò lại, nắm chặt trong lòng bàn tay gân guốc. Tiếng khóc của người đàn ông như muốn nuốt vào bên trong mà không sao nuốt được, nó cứ nấc lên, nấc lên nghẹn ngào. Không biết làm gì hơn, Ngọc ôm lấy anh:

- Anh cứ khóc đi, nhưng cuộc đời vẫn còn hy vọng mà - Trong vòng tay của Ngọc, đôi vai người thương binh mù vẫn rung lên từng đợt.

*

Thục hoàn chỉnh lại những số liệu cuối cùng để bàn giao tuyến ống cho đơn vị bạn. Tiểu đoàn 96 sẽ hành quân đi nhận nhiệm vụ mới.

 

Đến tháng 5-1970 Tiểu đoàn 96 đã vận hành qua hai mùa khô. Tuyến đường ống đã vào đến bản Vát cách đèo Mụ Giạ tám mươi cây số. Hơn tám ngàn tấn xăng đã xuất ra khỏi các kho đường ống ở tây Trường Sơn để tiếp sức cho các đoàn xe. Chỉ những ai đã nếm trải sự hi sinh ác liệt trên mỗi thước đường Trường Sơn, những ai trải qua những ngày máu lửa mà mỗi phi xăng phải đổi bằng một mạng người, mới hiểu được ý nghĩa của con số này.

Hai mùa khô đã gắn bó lính của Tiểu đoàn với tuyến ống của họ. Gian khổ ác liệt đã gắn kết họ lại. Tuyến đường ống đã thành lò lửa thử thách chân giá trị của mỗi người. Thục khâm phục sự từng trải, vững vàng những cán bộ lớn tuổi như Tiểu đoàn trưởng Công, Chính trị viên Đại đội Cao Thiên. Họ là trụ cột của Tiểu đoàn vào những lúc gian khó nhất. Còn những người lính, họ đã vượt lên gian khổ ác liệt bảo vệ và vận hành tuyến ống bằng sức trẻ của mình. Khi tuyến bị đánh cháy họ lao vào dập lửa, cứu tuyến ống không hề đắn đo. Bây giờ cả Tiểu đoàn hành quân nhận nhiệm vụ mới ở khu vực đường số 9. Đó là địa bàn giáp với các chiến trường ác liệt như Quảng Trị, Khe Sanh. Thử thách ở đó chắc sẽ khốc liệt hơn trên tuyến này. Bỗng nhớ Khanh đến nao lòng, Thục gửi nỗi niềm vào trang nhật ký:

Ngày... tháng 5 năm 1970.

Hai năm đã trôi qua kể từ ngày chia tay ấy. Anh mong mỏi nhưng vẫn không hề nhận được một lá thư của em. Anh đã không thể nắm bàn tay em một lần trước khi vào tuyến lửa. Con đường hành quân sắp tới sẽ có một đoạn qua miền Bắc hòa bình, nhưng anh cũng không thể có điều kiện về gặp em. Chiến tranh còn dài lắm, đến bao giờ anh mới lại được thấy em bằng da, bằng thịt. Đã xa cách quá rồi! Chiến tranh ác liệt không biết điều gì chờ đợi ở phía trước, vậy mà anh vẫn ước ao trong đời được một lần nắm bàn tay em. Đó là bàn tay của thiếu nữ có thể một lúc nào đó đã hướng tình cảm của mình về phía anh. Đó có thể là bàn tay của một thiếu phụ, hay bàn tay của một người phụ nữ 50, 70 tuổi. Điều ấy với anh hình như không còn quan trọng nữa, chỉ cần đó là bàn tay của em, của Khanh, người con gái với đôi mắt thăm thẳm đã in dấu vào tâm hồn anh, đã đi vào cuộc đời anh như một mặc định, không thể có gì thay thế.

 

Thục đặt bút, ngả người nhìn lên... Những giọt nắng sót lại của mùa khô lách qua kẽ lá vẽ thành những vòng tròn trên mái tăng.

Tuyến ống của Tiểu đoàn được bàn giao cuốn chiếu từ kho cuối ở bản Vát. Theo sự phân công của chỉ huy Tiểu đoàn, Thục dẫn hai Đại đội phía nam vượt ngầm bản Lắc để hành quân về phía Cổng Trời. Đoàn người lỉnh kỉnh súng đạn, nồi niêu, clê quay nhanh, dụng cụ lắp ráp sửa chữa đường ống. Tháng năm, trời phía tây Trường Sơn đã đầy mây. Một mùa mưa lại đến. Đường Trường Sơn không có mặt rải đá hay rải nhựa. Suốt mùa khô, những đoàn xe vận tải mài mòn mặt đường thành những lớp bụi dày hàng thước. Rồi tiếp đó là đất do bom đạn đào xới, chồng thêm lên lớp thảm bụi đó. Những trận mưa đầu mùa trút nước xuống các trục đường ô tô, làm bụi và đất bom quyện vào nhau thành một lớp bùn đặc quánh có khi tới thắt lưng... Những trận mưa như vậy tác dụng ngăn chặn ô tô còn khủng khiếp hơn hàng chục trận bom B52. Có lẽ không quân Mỹ hiểu như vậy nên sau mỗi trận mưa, những trận oanh tạc thưa hơn. Riêng bọn Tàu Càng vẫn lảng vảng trên trời săn những chiếc ô tô sa lầy giữa vùng đất trống.

Bốn giờ sáng, đoàn quân đến bờ nam ngầm bản Lắc. Dù là mùa mưa, hành quân qua trọng điểm nhất thiết vẫn phải đi lúc trời hửng sáng hoặc nhập nhoạng tối. Đó là khoảng thời gian ít bị nhòm ngó từ trên không. Thục lệnh cho hai Đại đội chỉnh đốn lại đội hình. Những người lính cho toàn bộ vũ khí, dụng cụ và tư trang vào túi ni lông. Họ lặng lẽ từng Tiểu đội vượt sông. Bến vượt của tuyến ống cách ngầm vượt sông của ô tô chừng một cây số nên vẫn còn vài lùm cây ẩn náu. Chính trị viên Đại đội Cao Thiên chỉ huy tốp đầu. Sau khi qua bến vượt phải nhanh chóng thoát ly xa sông. Đại đổi trưởng Chiển và Thục chốt ở bờ nam để chỉ huy đội hình tiếp theo.

Đội hình vượt sông cứ lặng lẽ từng tốp, từng tốp. Bỗng ầm... Một trái bom nổ, dựng một cột khói, đúng trên tuyến hành quân của họ. Có lẽ là bom từ trường hoặc bom nổ chậm. Thục giao cho Chiển tiếp tục chỉ huy bộ đội. Anh bơi qua sông, chạy về phía vừa có tiếng nổ. Khi anh đến, Chính trị viên Cao Thiên người đầy bùn đất đang chỉ huy khắc phục hậu quả.

- Bom từ trường anh ạ. Chắc nó ném tọa độ đêm qua - Chính trị viên nghẹn giọng - Xót quá, chỉ còn vài chục cây số nữa là đến đất Bắc, vậy mà anh em phải mãi nằm lại đây.

Ba người hi sinh, sáu người bị thương, quả bom nằm sát đường đi nên thi thể của tử sĩ bị xé vụn, vắt trên cành cây hoặc nằm rải rác quanh hố bom. Cao Thiên cho gom mảnh vụn của các tử sĩ, chia làm ba phần rồi mai táng họ bên tuyến đường ống. Cầu mong đây là những nấm mộ cuối cùng của đơn vị trên tuyến Hướng Tây này.

Đến phía bắc Cổng Trời, Tiểu đoàn trưởng cho hạ trại để bộ đội nghỉ ngơi. Một cuộc họp Đảng ủy Tiểu đoàn mở rộng đến chỉ huy Đại đội được triệu tập chớp nhoáng trước khi lên ô tô hành quân tiếp.

- Chúng ta phải đưa được toàn bộ Tiểu đoàn vào đường số 9 để thi công và vận hành đường ống - Tiểu đoàn trưởng mở đầu cuộc họp - Chiến trường ngày càng ác liệt, các đồng chí đã thấy những tốp lính đào ngũ đi ngược đường giao liên. Ta từ nơi ác liệt, nay hành quân qua đất quê hương thanh bình, rồi đến một nơi có thể còn ác liệt hơn. Vừa rồi lại có thương vong trên đường hành quân, tôi muốn biết tinh thần bộ đội thế nào?

Nói đến đây ông hướng về phía Chính trị viên Cao Thiên. Cao Thiên hiểu nỗi lo của Tiểu đoàn trưởng.

- Báo cáo. Việc vấp bom từ trường ở bắc ngầm bản Lắc lúc đầu cũng làm một số người dao động. Chúng tôi đã họp Đại đội. Bộ đội ta đã được tôi luyện qua hai mùa khô và một mùa mưa ở Trường Sơn, họ đã xác định: chiến trường là ác liệt, và sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ hy sinh.

- Đúng là họ đã được tôi luyện, nhưng những thử thách trong yên bình nhiều khi khó vượt qua hơn trong chiến đấu. - Tiểu đoàn trưởng bày tỏ nỗi băn khoăn của mình.

Cuộc họp diễn ra khẩn trương, đề ra những biện pháp chống đào ngũ, bảo đảm kỷ luật dân vận khi nghỉ lại các làng xóm trên đường hành quân.

Thực ra Ban chỉ huy Tiểu đoàn đã quá lo xa. Khi những chiếc xe vận tải đổ quân xuống phía bắc đèo 700, các Đại đội báo cáo quân số đều nguyên vẹn so với lúc vượt Cổng Trời.

- Lính mình vững vàng quá. Có phải ta chưa tin ở họ không? - Thục nói với Tiểu đoàn trưởng.

Tiểu đoàn trưởng trả lời:

- Hai mùa khô ác liệt ta hiểu anh em. Tuy nhiên, quả bom từ trường ấy giết anh em mình dã man quá. Là chỉ huy, chúng ta không được đơn giản bất cứ vấn đề gì. Bây giờ thì Ban chỉ huy Tiểu đoàn có thể yên tâm đưa quân dấn thân vào một cuộc chiến đấu mới.

 

Chỉ huy trưởng Công trường 181 Đặng Văn Thế tiếp Ban chỉ huy Tiểu đoàn 96 trong chiếc lán đơn sơ. Đây vốn là đất Việt Nam nên máy bay địch không đánh phá. Tuy nhiên, để đề phòng bất trắc, bên mỗi lán trú quân của Công trường đều có hầm trú ẩn. Thế trải tấm bản đồ lên bàn. Giới thiệu cho Ban chỉ huy Tiểu đoàn 96 đặc điểm địa hình, tình hình địch trên không và mặt đất. Ông chỉ tuyến đường ống đã thi công xong từ biên giới vào tận đường số 9 và nhấn mạnh:

- Đường hành quân của Tiểu đoàn cơ bản dựa và trục tuyến ống. Những chỗ cheo leo, đã làm đường đi thuận tiện. Hầu hết tuyến ống của ta đang giữ được bí mật, nhưng có một số nơi phải vượt qua trọng điểm ác liệt, địch thường xuyên đánh phá, nên việc tổ chức hành quân phải rất chặt chẽ. Chúng tôi sẽ có người dẫn đường các đồng chí qua từng đoạn. Vượt qua đỉnh đèo 700 là phải luôn luôn cảnh giác với địch trên không.

Thục hỏi kỹ lại thủ đoạn đánh phá và các loại bom mìn ngăn chặn của địch. Đặc biệt là bom lá. Trưởng ban Tác chiến Công trường 181 cung cấp cho anh khá tỷ mỉ các thông tin cần thết. Riêng với khu vực trọng điểm Pha Bang, anh nhấn mạnh:

- Vào mùa khô trọng điểm Pha Bang hầu như không bao giờ ngớt tiếng bom. Nhưng nay là mùa mưa nên trọng điểm cũng có lúc yên tĩnh. Biết chắc đường lầy, xe ta rất khó di chuyển nên thủ đoạn của chúng là ném bom tọa độ, máy bay 0V-10 tuần thám, phát hiện mục tiêu thì gọi phản lực đến ném bom. B52 một ngày đánh vài vụ, khá theo quy luật, tuy nhiên quy luật ấy cứ vài ba ngày lại thay đổi một lần - Trưởng ban Tác chiến nói khá rành rẽ, khiến Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 96 và Thục cảm thấy yên tâm.

Tiểu đoàn 96 hành quân dọc theo tuyến đường ống của Tiểu đoàn 66. Bộ đội đường ống đi dọc tuyến đường ống, vẫn có cảm giác như đi trên đất nhà mình. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh từng Đại đội đi cách xa nhau để tránh thương vong. Tuyến ống bây giờ được xây dựng khá cơ bản. Dốc có bậc, khe có cầu. Thậm chí có việc gì cần, họ có thể đến các cửa van nhờ giúp đỡ. Từ mùa khô 1969 - 1970 đến giờ, địch không còn đánh khu vực suối Ra Vơ nữa. Chúng quyết tâm chặn ở trọng điểm Pha Bang.

Qua đèo 700, lại tiếng 0V-10, lại máy bay phản lực. Tiếng bom vọng lại từ đèo 700, đèo 900 của đường ô tô. Còn tuyến ống dường như yên tĩnh. Những hố bom dọc suối Ra Vơ, trên đường phân thủy nam cao điểm 911, cây đã lên xanh.

Gần đến trọng điểm Pha Bang, Tiểu đoàn trưởng cho quân dừng lại, ông cùng Thục đi lên quan sát. Ở Trường Sơn trọng điểm nào cũng vậy, xơ xác, chết chóc.

Người nhận nhiệm vụ dẫn Tiểu đoàn vượt trọng điểm Pha Bang là một anh bộ đội cao, to, da xanh tái, nhưng đôi mắt sáng và cương nghị.

- Tôi là Nguyễn Đỉnh, Tiểu đội trưởng bảo vệ đoạn tuyến ống này. Tôi được giao nhiệm vụ dẫn đường các thủ trưởng. Ở đây không chỉ phải nắm được quy luật theo thời gian mà còn phải đi đúng đường, nếu không, có thể vấp bom lá, hoặc bom vướng nổ. Nếu bộ đội đã đến đây thì xin cho vượt trọng điểm gấp. Mấy hôm nay B52 thường đánh lúc bốn giờ chiều. Chỉ còn hơn hai tiếng đồng hồ nữa thôi.

Tiểu đoàn trưởng nói với Thục:

- Tôi sẽ cùng Đại đội đầu tiên vượt trọng điểm ngay bây giờ, cậu ở lại điều chỉnh giãn cách các Đại đội và khóa đuôi, rõ chưa?

- Rõ.

Đoàn quân lục tục lên đường. Lần lượt từng Đại đội. Họ phải đi rất nhanh, đi như chạy để vượt qua trọng điểm. Đại đội thứ tư và bộ phận hậu cần của Tiểu đoàn là tốp cuối cùng của đội hình hành quân. Thục nhẩm tính: một giờ nữa là vượt qua trọng điểm trọn vẹn. Cầu mong mọi việc yên ổn.

Khi Thục và bộ phận cuối cùng sắp hoàn tất việc vượt trọng điểm thì bom B52 bắt đầu nổ. Thục chỉ kịp lăn xuống một hố bom cạnh đường, rồi tối tăm mặt mũi. Đất đá, những khúc gỗ rơi rào rào Thục có cảm giác mình bị quăng quật trong hố bom. Khói chưa tan, anh đã nghe bốn phát súng. Thục vùng dậy chạy lên phía trước. Anh em mình bị rồi!

Im lặng. Chỉ còn vài giây thôi mà sao ghê sợ thế. Bỗng nhiên có tiếng khóc. "Đại đội trưởng ơi. Tiểu đội em chết hết rồi!". Thục lao tới. Một anh lính trẻ đang ôm bụng đầm đìa máu, cách đó mấy mét, một hố bom rộng hoác. Ba lô, clê quay nhanh vương vãi cùng những vũng máu. Đại đội trưởng gào lên: "Các Tiểu đội kiểm tra lại quân số!". Bây giờ thì Thục đã hiểu ra: Một quả bom rơi vào cái hố bom cũ có năm người trong một Tiểu đội   ẩn nấp. Riêng cậu đi đầu lăn xuống một hố bom khác, nên chỉ bị thương.

Năm liệt sĩ được chôn bên bờ sông Sê Bang Hiêng. Đồng đội bắn một loạt đạn tiễn đưa những người đầu tiên của Tiểu đoàn ngã xuống trên tuyến Hướng Đông.

 

Hơn một tháng nay, việc vận hành qua trọng điểm Pha Bang hầu như không tiến triển được. Vì trọng điểm thường xuyên bị đánh nên hết mỗi đợt vận hành, Binh trạm yêu cầu bơm nước đẩy xăng vào kho. Cơ sở lý luận của chiến thuật này thật rõ ràng và dễ thuyết phục: Giữa hai đợt vận hành, trong ống không có xăng, nếu bom đánh thì không cháy, nhờ vậy sẽ đỡ tổn thất xăng, lại giữ bí mật được tuyến. Tuy nhiên thực tế lại không đơn giản như vậy. Quãng đường từ Q200 đến bản Cọ gần năm mươi cây số, nên phải mất hơn mười tiếng đồng hồ, nước bơm từ Q200 mới đẩy được hết xăng ra khỏi đoạn ống ở trọng điểm Pha Bang. Mà ở trọng điểm Pha Bang thì có mấy khi mười giờ liền không có bom trúng tuyến. Bởi vậy, trong một đợt vận hành, hầu như không thể tránh được việc tuyến bị cháy. Thêm nữa, với đặc điểm địa hình trập trùng của Trường Sơn, thường xuyên bị đánh phá, không thể tránh được việc dừng bơm khắc phục sự cố. Những lúc dừng bơm như vậy, xăng nước lẫn lộn khiến cho dù không vận hành, trên tuyến ống vẫn còn xăng, nếu bom đánh trúng, vẫn gây nên đám cháy. Tuyến bị lộ, sự ngăn chặn của không lực Hoa Kỳ trở nên cực kỳ quyết liệt và không khoan nhượng. Hiệu suất vận hành nhiều đợt chỉ đạt khoảng ba mươi phần trăm. Có đợt rút hai trăm mét khối xăng từ Q200 bơm lên tuyến, mà kho bản Cọ hầu như không nhận được mét khối nào. Trước tình hình đó, Binh trạm quyết định tìm cách nắn tuyến dịch lên phía bắc, hy vọng tránh được khu vực bom đạn ác liệt ở trọng điểm Pha Bang.

Danh được giao nhiệm vụ cùng Đại đội 14 tìm tuyến mới. Tuyến đi vòng ra sau một lèn đá, gọi là phía sau vậy thôi, nhưng tuyến mới cách tuyến cũ chỉ khoảng ba trăm mét đường chim bay. Dịch lên nữa là vách núi dựng đứng. Để thi công, Tiểu đoàn tăng cường thêm hai Trung đội. Trên tuyến không có hang, bộ đội đào hầm trú ẩn ở những chỗ địa hình cho phép. Ngay từ phút đầu, người nuôi quân già tên Tuyền đã rất quý mến anh kỹ sư cấp trên xuống cùng anh em lính tráng. Danh đặc biệt thích món rau tàu bay muối dưa của bác Tuyền. Lâu lắm rồi không được ăn dưa. Vị chua đậm đà đã đánh bạt mùi hăng hắc của rau tàu bay, lại chấm với nước muối có quả ớt rừng khiến cho bữa cơm dù đói vẫn có hương vị quê nhà. Mấy chú lính ở Đại đội đều gọi bác Tuyền là bố, vì biết chắc bố có một cô con gái mười bảy tuổi, mà theo bố là xinh lắm. Tuy nhiên, bác Tuyền chỉ nhận cậu Tính là con thôi. Giờ mày là con nuôi bố. Khi nào hòa bình, sẽ là con rể. Người nuôi quân già quý cậu bé như con. Khi nào nó ra tuyến về muộn là ông đứng ngồi không yên. Có hôm nghe tiếng bom phía đơn vị đang thi công, bác quỳ xuống đất lạy trời lạy Phật phù hộ cho thằng Tính được bình an. Khi Tính về, bác ôm lấy nó khóc nức nở. Cả Đại đội trân trọng cái tình cha con ấy.

Dạo này đói, thực phẩm thiếu thốn, lại phải vác ống thi công qua lèn đá, sức khỏe bộ đội giảm sút nhiều. Bữa ăn đạm bạc. Vài ngày lại có người hy sinh, bị thương, hoặc lên cơn sốt ác tính phải đưa đi cấp cứu. Người nuôi quân già xót xa nhìn những chú lính trẻ chỉ bằng tuổi con mình, trong đó có Tính. Chúng nó đi tuyến về, mồ hôi đầm đìa, đói, bước đi có lúc trông không còn vững nữa. Vậy mà ông cũng chỉ có thể cho họ ăn bữa cơm gạo hẩm với canh rau tàu bay, hôm nào sang lắm thì có chút  thịt hộp. Một hôm bác Tuyền nói với Tính:

- Hôm qua bố phát hiện thấy dấu chân lợn rừng ở khe suối và đường đi của nó. Mùa khô, chắc nó thường xuống suối uống nước. Tối nay hai bố con mình xuống đấy phục, may ra bắn được thì Đại đội mình có bữa cỗ to.

Mấy cậu lính trẻ đề nghị:

- Bố già rồi, để chúng con đi cho. Bắn được lợn rừng về, bố chỉ huy làm thịt.

- Thôi, chúng mày ở nhà. Đi săn phải đi ít người thôi. Bắn được lợn rừng, tao sẽ báo cho, ra mà khiêng nhé.

Hai bố con xách súng ra bờ suối lúc tám giờ tối.

Chừng một giờ sau, có tiếng súng. Chắc bắn được lợn rừng rồi! Mấy chú lính reo lên, cầm đèn pin chạy về phía đó.

Đại đội trưởng đang lim dim ngủ thì có tiếng giật giọng:

- Báo cáo Đại đội trưởng, bác Tuyền bị thương nặng rồi.

Đại đội trưởng bật dậy, chạy ra sân. Bác Tuyền được cõng về, Tính theo sau khóc nấc: "Bố ơi. Con giết bố rồi, bố ơi".

Tuyền được đặt lên chiếc sạp nứa anh vẫn thường nằm. Y tá băng vết thương cho anh, nhưng máu từ ngực vẫn tuôn ra như xối. Tính cứ vật vã ôm lấy người lính già: "Bố ơi, con giết bố rồi".

Đại đội trưởng đến bên Tuyền. Người lính già khó nhọc mở mắt, thều thào nói:

- Thằng Tính không có lỗi gì đâu. Lỗi tại tôi. Tôi dặn nó chặn ở lối con lợn hay đi. Bố đuổi, thế nào nó cũng chạy lên đó. Khi nào thấy động thì bắn. Con lợn chạy trước, tôi đuổi theo sau, hô nó bắn. Đạn lạc sang tôi. Nó không có lỗi gì đâu. Đừng kỷ luật nó mà tội nghiệp.

Ông gọi Tính đến:

- Con ơi. Nếu bố không qua khỏi thì khi nào hòa bình, con hãy thay bố chăm sóc mẹ và em nhé. Đừng khóc nữa, con không có lỗi mà.

Tính ôm lấy Tuyền, vâng trong tiếng nấc. Mọi người không ai cầm được nước mắt. Người nuôi quân già đã lặng lẽ ra đi trước khi dòng xăng đầu tiên được vận hành qua tuyến tránh...

 

Mặc dù tuyến ống qua trọng điểm Pha Bang đã được nắn ra phía sau lèn đá, nhưng không đủ tránh được chiều rộng của vệt bom B52, nên chỉ sau vài đợt vận hành, tuyến vẫn bị lộ. Hàng ngày, đủ các thứ bom đạn đánh chặn quyết liệt, xăng hầu như không thể bơm được vào bản Cọ. Tiểu đội của Đỉnh vẫn kiên cường bám trụ ở đoạn ác liệt nhất. Cả Tiểu đội đã dày dạn kinh nghiệm. Họ nắm được quy luật đánh phá của địch, đề xuất thời điểm vận hành để có thể bơm xăng vượt trọng điểm, hiềm một nỗi, thời gian không có bom rơi lên tuyến quá ngắn ngủi, nên lượng xăng bơm vượt được qua trọng điểm chẳng là bao.

Là Tiểu đội trưởng, Đỉnh hiểu tính nết từng người. Trong Tiểu đội có ba người Hà Nội: Đỉnh, Hiến, Miên. Cả ba đều dũng cảm, và có phần liều lĩnh. Đến hôm nay, dù đã có mấy người trong Tiểu đội hy sinh, được thay bằng những người mới, cả ba chàng trai Hà Nội vẫn nguyên vẹn. Cả ba đều đẹp trai, lạc quan, làm mấy cô gái ở trung đội nữ bận lòng. Tối, họ thường gọi điện thoại hỏi thăm. Ngặt nỗi, điện thoại đấu chữ đinh, một người nói, cả tuyến nghe được nên chỉ nói vài câu cho đỡ nhớ thôi, chứ không dám tán tỉnh. Đỉnh là anh cả, đã có Lan, còn mấy cậu kia cứ ỷ mình đẹp trai, thỉnh thoảng lại buông vài câu nghiêng ngả với các cô. Mấy hôm nay, Đỉnh thấy Hiến có biểu hiện khác thường. Nếu không đi tuyến, cậu ta không tham gia đánh tiến lên cùng anh em, mà nằm tư lự một mình. Không phải đang yêu, vì người đang yêu khác lắm. Họ tư lự vì nhớ, nhưng họ luôn cảm thấy cuộc sống quanh mình đầy hoa trái, có khi cười, hát vô cớ. Đã sống chết cùng nhau, có điều gì sao nó không chia sẻ cùng anh em? Đỉnh đến ngồi bên Hiến:

- Mấy hôm nay mày có chuyện gì buồn mà không nói với anh em?

Hiến không nói gì, đưa lá thư mới nhận cho Đỉnh. Đỉnh kéo ngọn đèn dầu lại gần. Một lá thư với những dòng chữ nguệch ngoạc, khó lắm anh mới đọc hết:

Anh Hiến ơi. Mấy tháng nay mẹ ngã bệnh, nằm liệt giường. Nghe nói chiến trường nơi anh đang chiến đấu ác liệt lắm. Nhớ anh, đêm nào mẹ cũng khóc. Nhà chỉ còn em vừa đi làm vừa chăm sóc mẹ. Công điểm hợp tác chỉ được hai lạng thóc mỗi ngày, mà em tật nguyền, làm chẳng được bao nhiêu. Đã vậy, vừa rồi em bị ngã gãy chân. Giờ em và mẹ cực khổ lắm. Nhà thì dột tứ bề, không có gạo, thường phải ăn cháo, có ngày còn đứt bữa anh ạ. Ủy ban xã cũng có đến thăm và giúp đỡ. Nhưng cả xã đói nghèo, họ cũng lực bất tòng tâm. Anh ơi. Anh về đi, không có anh, khéo mẹ và em chết mất. Mẹ không cho em gọi anh về đâu, nhưng mà em lo mẹ chết lắm anh ơi. Em viết mấy lá thư kể cho anh rồi, sao anh không trả lời.

Đỉnh đặt lá thư xuống, trong lòng nặng trĩu. Chơi với nhau từ trước khi vào bộ đội, Đỉnh đã quá hiểu hoàn cảnh của Hiến. Cha chết sớm, mẹ tần tảo nuôi Hiến và cô em gái khá xinh, nhưng khoèo một cánh tay. Hôm lên đường, Đỉnh ái ngại cho gia cảnh của Hiến lắm, nhưng mẹ nó động viên: Thôi, con cứ yên tâm lên đường đi. Ở nhà, mẹ còn có em con nữa. Con đừng lo lắng gì.

- Giờ mày tính sao?

- Không biết nữa, ruột tao đang rối như tơ vò. Tao thương mẹ quá. Cả cái Hương nữa. Nó tật nguyền thì làm gì được cơ chứ.

Đỉnh im lặng. Anh nghĩ đông, rồi lại nghĩ đoài mà  không biết nói gì với bạn. Góc kia, mấy đứa trong Tiểu đội vẫn vô tư đánh bài. Bỗng Hiến giật áo Đỉnh:

- Đỉnh, tao hỏi thật mày, có bao giờ mày nghĩ tao là thằng hèn nhát không?

- Sao mày lại hỏi thế? Chúng mình đã có nhau những lúc ác liệt nhất, cả những lúc chín phần chắc chết, vậy mà mày vẫn vững vàng. Mày làm gương cho anh em trong Tiểu đội, mày gan dạ khiến các em gái chuyền nhau khâm phục mà.

- Hoàn cảnh của tao mày biết rất rõ rồi. Mấy hôm nay tao nghĩ nhiều lắm. Làm trai, tao sẵn sàng chết ở chiến trường. Nhưng làm con, tao không nỡ để mẹ chết ở hậu phương được.

- Mày định đào ngũ? - Đỉnh ngạc nhiên nhìn Hiến. Anh không ngờ những lời này lại thốt ra từ người lính được coi như gan dạ nhất Tiểu đoàn.

- Nghe hai từ ấy xấu xa quá, nhục nhã quá. Nhưng tao nghĩ mãi rồi. Ở đây, không có tao thì có người khác. Còn ở nhà, không có tao, mẹ và em tao có thể chết đói. Tao nói vậy, mày khinh tao lắm phải không?

Đỉnh bỗng bị rơi vào tình thế thật khó xử. Đồng ý cho nó bỏ ngũ ư? Sao thế được, kỷ luật quân đội kia mà. Thêm nữa, ác liệt thế này, một người bỏ ngũ, sẽ khó tránh được phản ứng dây chuyền. Ở cái tập thể nhỏ bé này, anh là chỗ dựa tinh thần của cả Tiểu đội. Biết anh dung túng cho kẻ đào ngũ, liệu anh em sẽ nhìn anh ra sao. Đấy là nghĩ  theo cách của người chỉ huy. Nhưng với tư cách của một người bạn, nỡ nào ngăn cản tình thương của nó với mẹ già, em dại. Thử đặt mình vào hoàn cảnh của nó, mới thấy khó xử. Khi nó đã quyết, dù mình muốn ngăn cũng không được, mà nỡ nào ngăn nó cơ chứ. Biết nó bỏ ngũ mà không ngăn cản, có thể mình cũng bị kỷ luật. Nhưng mình có thể ích kỷ vậy không? Ở đây, Hiến là người thế nào anh em đã rõ, mình nói hết sự tình, chắc anh em cũng cảm thông thôi.

- Không. Tao không khinh mày. Tao hiểu hoàn cảnh của mày Hiến ạ. Mày về với cụ đi. Mọi việc để tao lo.

Hiến ôm lấy Đỉnh, nghẹn ngào:

- Mày hãy thông cảm cho tao. Tao biết ơn mày. Tao biết, về nhà tao sẽ cực khổ với chính quyền và dư luận lắm. Tao không hổ thẹn về những ngày chiến đấu ở đây, bởi vậy, tao đủ gan lỳ để vượt qua những điều tiếng ở hậu phương, ở đó có nhiều thằng chỉ ba hoa nói về lòng yêu nước, nhưng hèn nhát, không dám vào chiến trường và chạy chọt để con mình không phải ra trận.

- Tao hiểu. Mày hãy đi một cách im lặng, và bảo trọng. Khi mày rời Tiểu đội, tao sẽ nói với anh em là mày đi công tác. Rồi chuyện gì lo sau. Mày chờ tao một lát.

Nói rồi, Đỉnh lục ba lô của mình:

- Tao không có gì cho mày cả. Đây là cái dù pháo sáng, định mang về tặng em tao. Mấy bao thuốc tiêu chuẩn Tết vẫn còn, ra hậu phương, bí quá mày bán cũng được chút ít. Còn đây là toàn bộ số tiền còn lại của tao. Tiền Ngân hàng đấy, chứ tiền Trường Sơn (*) đâu có tiêu được. Đây đến biên giới mất hai ngày. Mày tìm đường đi cho an toàn. Tao sẽ cố gắng để mọi người biết việc này muộn ngày nào hay ngày nấy. Nhưng khó mà quá được hai ngày lắm.

Tờ mờ sáng hôm sau, Hiến khoác ba lô lên đường. Đỉnh tiễn bạn. Họ ôm nhau lần cuối:

- Mày về nói với anh em thế nào tùy mày. Vì thật ra một thằng đào ngũ thì không thể có lý do nào lọt tai với những người ở lại vật lộn với cái chết.

- Thôi. Mày đi đi, đừng bận lòng nữa. Tao tin khi biết chuyện, mấy thằng trong Tiểu đội sẽ hiểu mày.

Đỉnh đứng nhìn theo bóng bạn khuất dần sau lối rẽ. Cầu mong cho mày an toàn về đến nhà.

 

Khi Ngọc trở về đơn vị, cả Ban Kỹ thuật ùa ra đón. Không chờ anh lên báo cáo, Đặng Văn Thế xuống ngay Ban Kỹ thuật thăm. Ông nhìn anh ái ngại. Lớp da bỏng đen đúa đã bong hết, nhưng thay vào đó là một khuôn mặt với những mảng màu đỏ tấy, những mảng trắng bợt như người bạch tạng cả trên cằm, má và môi. Xen trên cái nền hỗn tạp ấy là những đường vằn đen như da hổ. Hai cánh tay, bàn tay và chân, chắc vì vết bỏng sâu hơn nên  nhiều chỗ có vẻ như đang thành sẹo.

- Cậu thấy trong người thế nào?

- Báo cáo, tôi khỏe, có thể nhận nhiệm vụ được ngay.

- Thế còn những vết bỏng này? - Thế chỉ vào mảng da đang thành sẹo trên mu bàn chân.

- Chúng nó sẽ ổn dần thủ trưởng ạ. Tôi có mang về một số nghệ để bôi cho chóng lành hoàn toàn.

- Chắc như thế này lội nước chưa ổn đâu. Cậu nghỉ thêm ở nhà một tuần, nắm lại tình hình, rồi ta tính.

Bữa cơm chiều, thay vì xuống nhà ăn, Lê Khôi nói anh em mang cơm về Ban, làm thịt con gà tăng gia, kiếm thêm ít rượu mừng thằng Ngọc tai qua nạn khỏi trở về. Ngọc cảm động: Ở bệnh viện, anh là người được coi như khoẻ mạnh để có thể giúp thêm y bác sĩ chăm sóc thương bệnh binh. Khỏi hẳn, ra viện, về đơn vị, lại được mọi người chiều chuộng như người ốm. Khuôn mặt bây giờ đỡ gớm ghiếc rồi. Cái khuôn mặt với đôi tay, đôi chân đang lên sẹo này đã từng là mơ ước của những người cụt cả hai tay, cụt hai chân, hay mù hai mắt, vậy mà giờ đây vẫn là kỳ dị giữa những khuôn mặt người thường. Chiến tranh đã sinh ra thế giới của những người tàn phế. Và chỉ sống trong thế giới ấy, anh mới hiểu được nỗi đau của họ. Từ khi trở về đến giờ, không ít người đến hỏi thăm anh. Có người thực lòng nhớ, có người chỉ vì tò mò. Anh đã có lúc chạnh buồn khi nghe hai người nói với nhau: Tội thằng Ngọc quá, không hiểu với khuôn mặt ấy, nó có lấy vợ được không.

Lê Khôi giơ cao ly:

- Cạn ly mừng Ngọc đã trở về với anh em. Chúc cho Ngọc sớm hoàn toàn bình phục.

Những chén rượu chạm nhau canh cách. Lâu lắm rồi, Ban mới có lúc đông đủ thế này. Họ kể cho Ngọc nghe những chuyện xẩy ra trên tuyến ống của Công trường và Tiểu đoàn 66, về Tiểu đoàn 96 đã hành quân từ tuyến Hướng Tây sang, đang thi công tuyến Q6 đến Q7. Lê Khôi hỏi Ngọc:

- Cậu biết thằng Dũng cũng sắp về lại đơn vị chưa?

- Sao lại về? Nó đi học đào tạo ở Trường Sĩ quan Lục quân kia mà?

- Sức khỏe yếu. Hôm trước mình mới nhận được thư nó. Nó bảo: Tưởng trèo đèo lội suối Trường Sơn là có thể chịu đựng được mọi loại gian khổ. Ngờ đâu vẫn chưa là gì so với sự khổ luyện ở Trường Sĩ quan Lục quân. Có hôm nó ngất ngay trên thao trường. Người ta bảo: sức khỏe của đồng chí không thể theo nghiệp sĩ quan lục quân được. Nếu rời khỏi trường, nguyện vọng của đồng chí là gì? Nó nói ngay: Tôi xin trở về đơn vị cũ, bộ đội đường ống. Thằng ấy khá.

- Tôi nghĩ khác. Thực ra đó là xuất phát từ tư tưởng ham địa vị - Thanh nói.

- Sao cậu nói vậy? - Khôi ngạc nhiên.

- Chắc nó hy vọng về đây ác liệt sẽ nhanh được thăng tiến.

Quang cự lại:

- Thế theo ông, làm thằng đàn ông vào chiến trường coi cái chết nhẹ như lông hồng, một là xanh cỏ, hai là đỏ ngực, có đáng trọng hơn những thằng hèn nhát cố tìm cách lẩn trốn ở hậu phương không?

- Thôi thôi. Đừng cãi nhau nữa - Lê Khôi can - Mình thấy thằng Dũng tình nguyện về lại nơi ác liệt này là đáng quý lắm rồi. Hôm nay mừng Ngọc về, không phải lúc tranh luận.

Ngọc hỏi:

- Nghe nói trọng điểm Pha Bang vẫn ác liệt lắm phải không?

- Đúng vậy. Ông Huỳnh Phường đúng là có con mắt quân sự - Danh đáp - Năm ngoái, khi Pha Bang còn xanh ngút ngát, ông ấy đã nói đây sẽ thành trọng điểm. Bây giờ thì nơi ấy đã thành tử địa. Chúng nó ngăn chặn quyết liệt quá, nhất là khi phát hiện ra tuyến ống dẫn dầu đi qua.

Quang góp vào:

- Sắp tới phải bơm xăng vào Q6. Cứ đà này thì khéo không có xăng mà bơm vào đấy. Hiệu suất vận hành cứ lẹt đẹt hai mươi, ba mươi phần trăm thế này thì hậu phương lấy xăng đâu cho xuể.

 

Vậy là kho Q6 đã hoàn thành. Tuyến ống từ Q5 đến Q6 đã nối thông và hoàn thành thử rửa. Ngày chuẩn bị chính thức bơm xăng thì kho Q6 bị oanh tạc. Một hố chứa bốn bể trúng bom. Một phần tuyến liên hoàn trong kho bị phá hủy. Mất ba ngày với lực lượng tăng cường từ Tiểu đoàn, Đại đội quản lý kho mới hoàn thành việc khắc phục hậu quả. Lại phải thêm một tuần chờ đủ xăng ở Q5, vì trọng điểm Pha Bang bị đánh quá ác liệt, mỗi ngày chỉ bơm vào Q5 được mấy chục mét khối. Rất may Đại đội  kỹ thuật của Vĩnh từ QH đã vào đây hàn một bồn chứa tới hơn ba trăm mét khối đặt trong hang, nên lượng xăng chứa ở bản Cọ đủ để lót ống và đưa vào đầy kho Q6.

Sau khi xăng bơm đầy kho Q6, Ngọc đi ngược trở ra, kiểm tra lại hệ thống tuyến ống và trạm bơm trước khi về Công trường bộ 181. Trung đội trưởng Quy, người Thanh Hóa đưa Ngọc vào hầm nghỉ của trạm bơm B5. Căn hầm được cấu tạo giống như những chỗ đóng quân thường thấy của bộ đội Trường Sơn: nhà âu nối liền với hầm chữ A. Tuy nhiên, xem ra chủ nhân của những căn hầm này rất quy củ. Xung quanh hầm được quét dọn sạch sẽ, phong quang. Trong hầm không hề thấy có mùi ẩm mốc.

- Anh nghỉ tạm ở đây. Nhớ là trước khi đi ngủ phải chú ý kiểm tra giường chiếu, ngủ nhớ giắt màn - Quy dặn.

- Sao dặn cẩn thận vậy, mấy cái việc ấy, lính Trường Sơn phải biết chứ.

- Ở đây nhiều rắn và bọ cạp. Đôi khi mình đi làm, chúng chui vào chăn nằm. Lúc lên dốc, anh có thấy một ngôi mộ cạnh đường không? Nghe nói đó là mộ của một người lính bị bọ cạp cắn. Không hiểu cái giống bọ cạp này độc đến mức nào mà anh ta đau đớn quá, đã lấy súng tự sát.

Trạm bơm B5 đặt trên một triền đồi thấp. Địa hình từ bản Cọ đến Q6 không nhiều đèo dốc nên thi công không quá vất vả. Tuy nhiên, để tuyến ống tránh xa đường ô tô, hầu hết ống được chuyển vào đây bằng đôi vai chiến sĩ. Bộ Tư lệnh 559 đã huy động lực lượng hai binh trạm, cật lực hai tháng trời mới hoàn thành. Đầu bắc, kho Q5 và trạm bơm B4 đã bị bom cày đi xới lại nhiều lần mà vẫn đứng vững. Đầu nam, kho Q6 ở bắc đường số 9 đã bị bom cày tung một hố bể, nhưng chưa có xăng nên chưa bị cháy. Tuy nhiên, Ngọc cho rằng những chiếc ống nằm ngổn ngang sau trận oanh tạc rất có thể đã làm cho không quân Mỹ bán tín bán nghi rằng họ đã đánh trúng tuyến ống. Những trận đánh dọc theo đường mòn thăm dò ngày càng dày, nhưng chưa lần nào địch đánh trúng tuyến. Nhờ vậy, ta đã vận hành trót lọt được mấy đợt, xe đã có thể nhận xăng ở đường 9.

Trạm bơm B5 được làm khá đẹp. Bốn trụ gỗ là những thân cây đường kính tới ba mươi phân. Giàn mái được ken bằng những đoạn cây đều tăm tắp, đổ đất dày ba mươi phân để chống bom bi. Trạm bơm đặt dưới tán cây kín đáo. Ống đoạn tuyến này cũng được chôn giấu cẩn thận. Ngọc ở đây vài ngày để kiểm tra các tham số của trạm bơm khi vận hành. Quy là một cán bộ ít nói, nhưng cẩn thận. Điều ấy được thể hiện rất rõ trong việc ghi chép nhật ký vận hành. Sang ngày làm việc thứ hai, Ngọc cơ bản ghi chép đầy đủ các tham số. Cứ đà này thì chỉ nốt hôm nay là xong.

Đợt vận hành đã ổn định được hơn bốn tiếng. Chỉ một giờ nữa là hoàn thành. Bỗng chiếc Tàu Càng đang bay trinh sát dọc đường mòn vòng trở lại. Có thể nó đã phát hiện ra điều gì đó chăng. Con đường đoạn này đi qua nương rẫy bản cũ, nên địa hình khá trống trải, hầu hết là cây "Cộng sản" chỉ cao quá đầu người một chút. Lính đi bộ dưới trời nắng bất cẩn có thể bị phát hiện, nhiều khi chỉ là ánh thép của khẩu súng vác trên vai, hoặc đi lộ liễu giữa bãi trống. Không sai. Chiếc Tàu Càng thu hẹp dần vòng lượn và bắn một quả đạn khói. Bầu trời trong xanh bỗng chốc bị xé nát bởi một lũ phản lực bâu đến. Những tiếng rít ghê rợn, và những loạt bom thi nhau dội xuống con đường mòn mảnh mai. Áp suất trên đồng hồ tụt về gần số không. Quy thét vào máy:

- Khu vực B5 bị bom. Đứt tuyến. Cho ngừng bơm ngay.

- B4 nghe rõ. Sẽ tắt...

Một loạt bom tiếp theo. Đường dây đứt. May sao không có đám cháy. Quy thở phào:

- Chỉ đứt tuyến, nhưng không cháy, hy vọng tuyến chưa bị lộ.

Khi tiếng bom ngừng hẳn, Quy cầm clê quay nhanh, ra lệnh:

- Trung đội phó trực máy. Hai cậu theo tôi.

Ba người lao ra khỏi trạm bơm. Ngọc chạy theo. Hiểu được anh em khắc phục sự cố khi vận hành là điều rất có ích. Ống không bị chặt đứt, nhưng quả bom nổ gần đã giật mạnh đến mức bật tung bu lông ở ngoàm nối. Tuyến đã ngừng vận hành, xăng trong ống chảy dồn xuống một hố bom cách đó chừng chục mét. Bốn người hè nhau chỉnh ống vào vị trí, thay ngoàm và siết ốc. Công việc gần xong thì chiếc Tàu Càng quay lại, vo ve trên trời. Quy ra lệnh:

- Mọi người tản ra, vào hầm trú ẩn ngay. Tôi sẽ siết nốt con ốc này rồi vào sau.

Ba người luồn qua mấy tán cây, núp vào một cái hầm chữ A đào sẵn. Rất có thể chiếc Tàu Càng chưa phát hiện được họ, vì chỗ Quy đứng có mấy cái cây che. Khi họ vào hầm rồi, bỗng chỗ Quy đứng phun lên một luồng xăng hình dẻ quạt. Xăng tưới lên người Quy ướt sũng từ mái tóc đến mộ quần áo trên người, đôi giầy vải dưới chân. Xăng từ một đỉnh cao nào đó giờ mới chảy đến đây. Quy cố sức siết chặt các con ốc. Cái dẻ quạt thu nhỏ dần lại. Giữa lúc ấy, một loạt bom bi nổ. Cái hố bom chứa đầy xăng, cái hố Quy đứng chứa đầy xăng, và người Quy đang như tắm trong xăng. Tất cả bùng cháy. Quy thành một khối lửa. Khối lửa ấy bật lên khỏi hố, rồi gục xuống bất động. "Trời ơi, Quy ơi!". Cả ba người xót xa bất lực nhìn khối lửa ấy cứ cháy, cứ cháy rừng rực giữa biển lửa như nung, không gian ràn rạt, ngột ngạt. Tiếng bom rít, bom nổ bốn bề.

Thi thể cả Quy là một khối đen như than. Hai người lính ôm xác nghẹn ngào:

- Sao anh không vào hầm với chúng em. Anh chết tức tưởi thế này sao anh Quy ơi.

Khi thi thể Quy được đặt trước trạm bơm, cả Tiểu đội canh máy bơm khóc gào như xé. Đủ biết sinh thời, Quy đã được anh em quý đến mức nào. Ngọc là cán bộ kỹ thuật của Công trường, nhưng do đặc điểm công việc, anh thường nằm với các Đại đội, chứng kiến nhiều sự hy sinh. Vậy mà trong tiếng khóc xé ruột của những chàng trai, anh cũng không sao cầm lòng được. Mộ Quy đặt ở đầu dốc, gần ngôi mộ của người lính bị bọ cạp cắn, trong thế giới âm, anh sẽ không cô đơn. Ở đấy, anh em đi tuyến, sẽ qua lại thường xuyên, phần dương, anh sẽ có hơi ấm của anh em trong Trung đội.

 

Tháng 7-1970, khi tuyến đường ống dã chiến đã chứng tỏ được sức sống của mình trên những vùng ác liệt nhất, chân hàng xăng viện trợ của các nước bạn đảm bảo được ở phía Bắc, Chính phủ giao cho Bộ Quốc phòng xây dựng và vận hành hệ thống tuyến đường ống từ biên giới vào đến chiến trường. Trên tuyến Hướng Đông, Tiểu đoàn 66 vẫn bám trụ kiên cường, đặc biệt là trọng điểm Pha Bang. Xăng đã vào Q7, tuyến tiếp tục phát triển về phía trong. Đường ống dẫn dầu là một phương thức vận tải hiện đại, đòi hỏi tính thống nhất và tính hệ thống rất cao. Nhưng tuyến đường ống ở đây đang có sự quản lý, chỉ huy khá phân tán: Binh trạm 90 chỉ huy Tiểu đoàn. Các vấn đề kỹ thuật lại được giải quyết bởi Công trường 181, nay lại có thêm Tiểu đoàn 96 do Bộ Tư lệnh 559 mới điều từ Hướng Tây sang. Để phát huy hết sức mạnh của phương thức vận tải đường ống, đến cuối mùa mưa, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Trung đoàn 952, Trung đoàn đường ống đầu tiên của Đoàn 559. Trung đoàn sẽ gồm Tiểu đoàn 66, Tiểu đoàn 96 và bổ sung về thêm một tiểu đoàn, Tiểu đoàn 69.

Hôm tập trung ra mắt Ban chỉ huy Trung đoàn, Lê Trọng rất mừng vì hầu hết mọi người đều đã biết nhau trên tuyến X42, tuyến Hướng Tây và Hướng Đông. Hầu hết bộ máy của Công trường 181 được chuyển về Trung đoàn 952. Ban Kỹ thuật trừ Hải và Thanh được điều ra tuyến ngoài, còn lại đều được điều động về Trung đoàn. Trung đoàn trưởng Lê Trọng, Trung đoàn phó Đặng Văn Thế, đều là những cán bộ dày dạn kinh nghiệm ngay từ khi đặt những chiếc ống đầu tiên của bộ đội đường ống Việt Nam. Họ cũng là những người đủ sức chịu đựng những thử lửa khốc liệt nhất. Chủ nhiệm Chính trị không ai khác, là ông Hoàng Trần. Hoàng Trần đã chữa khỏi vết thương ở mông, giờ lại phương phi, béo tốt. Khuynh, Chính ủy Trung đoàn là một gương mặt mới. Dáng người nhỏ nhắn, tính tình vui vẻ. Đăng Tùng, Trung đoàn phó, cũng là một gương mặt mới. Ông dáng cao gầy với cái trán dô của người không ngán gì bom đạn. Giữa nơi ác liệt này, sự xuất hiện của một người chỉ huy như thế, khiến mọi người vững tâm hơn.

Việc đầu tiên mà Trung đoàn 952 phải giải quyết là tìm cách để xăng có thể bơm qua trọng điểm Pha Bang với hiệu suất chấp nhận được, vì mấy tháng nay, các đợt vận hành đều đạt hiệu suất dưới năm mươi phần trăm, nghĩa là hơn nửa số xăng rút khỏi Q200 đã cháy hoặc đổ xuống các hố bom, sông suối.

Cuộc họp Chỉ huy Trung đoàn mở rộng bàn việc đưa xăng vượt qua "cửa tử" Pha Bang, kéo dài hết buổi sáng. Tấm bản đồ tuyến ống qua trọng điểm Pha Bang đã trở nên quen thuộc với hầu hết những người trong cuộc họp, nhưng mỗi người chỉ hiểu trọng điểm theo chức năng, vị trí của mình. Hôm nay, lần đầu tiên, họ được nghe Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 66 báo cáo lại toàn bộ diễn biến tình hình kể từ ngày 22-12-1969, khi dòng xăng lần đầu vào kho hang bản Cọ. Những trận đánh phá ác liệt, thương vong của bộ đội ta, việc nắn tuyến ra sau lèn đá ở phía bắc, thủ đoạn đánh phá của địch... được Tiểu đoàn trưởng trình bày lại mạch lạc một cách hệ thống. Phần cuối báo cáo, Tiểu đoàn trưởng nhấn mạnh:

- Mùa khô 1969 - 1970, đường 18 là hướng nghi binh mà các trọng điểm Pha Bang, 900, 700 đã bị đánh phá rất nặng nề. Mùa khô này, khi đường 18 được sửa sang cơ bản, và trở thành một hướng vận tải chủ yếu thì mật độ đánh phá của địch càng quyết liệt hơn. Chỉ riêng tháng 11, địch huy động 387 lần chiếc máy bay B52 rải thảm lên trọng điểm, trong đó có 91 lần trúng tuyến ống. Việc bơm xăng vượt qua trọng điểm Pha Bang đang vô cùng khó khăn. Số ống phải thay cộng lại đã dài gấp đôi chiều dài tuyến ống qua trọng điểm. Thậm chí, nếu cứ giữ nguyên tuyến và chiến thuật vận hành như hiện nay thì có nguy cơ đường ống không hoàn thành việc đảm bảo xăng cho các nhiệm vụ trong mùa khô này.

Sau báo cáo của Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 66, các cơ quan lần lượt tham gia ý kiến. Lê Trọng chăm chú nghe, ghi chép cẩn thận, đánh dấu các ý kiến cần lưu ý. Ông không hề cắt ngang các ý kiến phát biểu. Ông từng chỉ huy thi công, vận hành tuyến Hướng Tây, làm Phái viên của Tổng cục hoạch địch tuyến Q5 đến Q6. Ông hiểu rất rõ nhiệm vụ nặng nề của mình. Tháng 6-1970, Quân ủy Trung ương đã ra Nghị quyết củng cố vững chắc tuyến 559 với các phương thức vận chuyển đường bộ, đường ống, đường sông. Một số đơn vị cấp sư đoàn của Bộ đội Tình nguyện Việt Nam ở Lào cũng được sáp nhập vào 559. Mùa khô này, toàn Đoàn có trên 6500 đầu xe hoạt động, trên 1000 thiết bị làm đường, rà phá bom mìn và hàng nghìn thiết bị kỹ thuật khác. Đó là chưa kể những đoàn xe và binh khí kỹ thuật chạy thẳng từ hậu phương qua tuyến vận tải 559, vào các chiến trường. Vấn đề đảm bảo xăng dầu không còn là câu chuyện của những chiếc xe chở phuy hay xe stec đơn độc chạy trên đường, mà phải được cung cấp với cường độ của phương thức vận chuyển đường ống. Việc thành lập Trung đoàn 952 là một biện pháp trong tổng thể các biện pháp đồng bộ để cung cấp xăng dầu từ hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn. Cấp trên đã tin tưởng đặt ông vào nơi nóng nhất, khó nhất. Điều đó thể hiện sự tín nhiệm đối với ông, nhưng cũng đặt lên vai ông trách nhiệm rất nặng nề. Ông đã cùng anh em vượt qua thử thách khốc liệt ở trọng điểm 050. Cũng những con người ấy, nay đã dạn dày bom đạn, dạn dày kinh nghiệm xử lý kỹ thuật, không có lý do gì cam chịu thất bại. Ông chăm chú nhìn lên tấm bản đồ trọng điểm Pha Bang. Trên đó, đường ô tô đã được nắn đi, nắn lại qua các trận đánh phá, như một búi dây màu đỏ, còn đường ống như một sợi chỉ màu đen luồn qua các bãi bom nổ chậm, bom từ trường dày đặc. Sự ác liệt của trọng điểm Pha Bang không phải lạ lẫm gì đối với ông, vì ông đã vài lần ngồi xe vượt qua trọng điểm, và chính ông đã đối mặt với cái chết, chứng kiến sự hy sinh của trung tá Quang Trung. Ông khâm phục sự dũng cảm, chịu đựng và khôn ngoan của các cán bộ chiến sĩ trên tuyến ống. Tuy nhiên, rõ ràng làm như vừa rồi vẫn là chưa đủ trước sự ngăn chặn hủy diệt của không lực Hoa Kỳ. Sau khi tổng hợp mọi ý kiến, ông kết luận cuộc họp một cách chậm rãi:

- Pha Bang là nơi đụng đầu giữa hai khối quyết tâm. Chúng ta quyết tâm bơm xăng đường ống vượt qua trọng điểm. Ngược lại, không lực Hoa Kỳ quyết tâm ngăn chặn bằng tất cả mọi biện pháp có thể. Bởi vậy, sự hy sinh ác liệt tại đây là đương nhiên. Vấn đề bây giờ là ta phải bàn tới các biện pháp khôn ngoan hơn nữa, gan góc hơn nữa mới hy vọng giành phần thắng. Chúng ta không thể tham vọng không có xăng cháy, không có hy sinh. Điều quan trọng bây giờ là phải cố gắng để nâng cao hiệu suất vận hành, không thể để ở tình trạng hai mươi, ba mươi phần trăm, thậm chí mất trắng như hiện nay. Các đồng chí cũng phải hiểu cho, mỗi lít xăng vào đến đây là kết quả của sự thắt lưng, buộc bụng của hậu phương, của sự chi viện vô cùng quý báu từ các nước anh em, xương máu bộ đội, Thanh niên xung phong và nhân dân.

Nói đến đây, ông không kìm nén được xúc động. Biết bao người lính đã ngã xuống dọc tuyến đường ống. Và bây giờ đây, trước mắt ông, những sĩ quan, kỹ sư vẫn còn nguyên vẹn nhiệt huyết, quyết tâm, nhưng hốc hác, xanh xao vì thiếu ăn, vì phải qua những trận chiến đấu căng thẳng, vì sốt rét rừng. Rồi đây, ông lại cùng họ lao vào một cuộc chiến đấu mới không cân sức với bom đạn kẻ thù. Lê Trọng nói tiếp:

- Để có thể thắng trong trận này, ta phải giải quyết đồng bộ cả ba vấn đề: Chiến thuật, kỹ thuật và chính trị tư tưởng - Ông chỉ lên tấm bản đồ dày đặc các ký hiệu bom đạn - Tuyến ống đã nắn ra phía sau lèn đá phía bắc trọng điểm Pha Bang. Nhưng đã bị lộ, và vẫn khó tránh được vạ lây khi B52 đánh vào các đoàn xe. Đã hơn một năm nay, đường sông qua đây ngừng hoạt động nên trọng điểm tập trung ở phía bắc sông Sê Bang Hiêng. Bây giờ chúng ta nắn tuyến sang phía nam sông. Ở đó có một rẻo đất tương đối phẳng chạy dọc sông, có thể giấu tuyến, hy vọng giảm được sự vạ lây khi bom đánh đường ô tô, nhưng điều quan trọng nhất là tạo bất ngờ cho địch. Đây cũng là gợi ý của Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên. Về chiến thuật vận hành, chúng ta cũng phải điều chỉnh lại: không lót nước giữa các đợt vận hành nữa, vì việc lót nước sẽ làm mất thời cơ vận hành và làm ảnh hưởng đến chất lượng xăng. Vấn đề cuối cùng: vấn đề tư tưởng. Chúng ta đã vài lần nắn tuyến, nhưng đã không thành công. Lần này, phải thi công bảy cây số trong điều kiện địch đánh phá cực kỳ ác liệt, OV-10 liên tục trinh sát trên không, cần quán triệt tốt hơn nữa nhiệm vụ đến từng cán bộ, chiến sĩ trên công trường. Tôi yêu cầu cán bộ chỉ huy, cán bộ kỹ thuật, cán bộ hậu cần, chính trị tất cả các cấp phải thay nhau có mặt trên công trường để chỉ huy bộ đội, giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh. Cả Trung đoàn phải coi đây như một chiến dịch.

Kế đó, Lê Trọng giao nhiệm vụ cho từng cơ quan về lập kế hoạch chi tiết. Ông đã thổi vào những người dự họp một khí thế mới cho nhiệm vụ mới.

Lan lên công tác ở cơ quan Trung đoàn được vài tháng thì nhận được quyết định phục viên. Tính đến hôm nay, cô đã phục vụ trên tuyến đường ống được ba năm. Gần hai năm bám trụ trên trọng điểm Pha Bang đã làm Lan thay đổi nhiều quá. Nước da nõn nà xưa, nay đã xanh xao, mái tóc gội bom, gội đạn, gội gió gội sương, đã rụng mất nhiều sau những cơn sốt rét, còn đâu óng mượt như xưa. Những lần vác ống thi công, cứu tuyến đã lấy đi cái eo thon thả. Cũng không còn đôi bàn chân mà các bạn cùng lớp hay gọi là "gót sen" đài các. Nó đã nứt nẻ, chai sạn vì băng qua đạn bom, trèo đèo lội suối. Không ít lần, soi bóng xuống dòng suối, Lan giật mình bàng hoàng vì sự thay đổi của mình. Em đã thay đổi nhiều quá rồi anh ơi, nhưng em vẫn thấy cuộc đời đẹp quá. Em đã có anh. Những lúc được trong vòng tay anh, những lúc được nhớ anh, cả những lúc cận kề cái chết, em vẫn có anh. Mấy người con gái Trường Sơn được như em đâu anh. Em biết ơn anh nhiều lắm. Bây giờ, cầm trong tay quyết định này, sao em chẳng thấy vui. Em bỗng rùng mình, lo sợ tình yêu tuột khỏi tay. Tình yêu của chúng mình được nhen lên từ khói đạn, từ gian khổ, ác liệt, đâu có giống thứ tình yêu mộng mơ dễ vỡ như pha lê. Nhưng anh ơi, em vẫn lo lắm. Em có giữ được anh mãi mãi trong cuộc đời này không, khi mà bom đạn có thể cướp anh của em đi bất cứ lúc nào. Rồi nữa. Sau đây sẽ có một lớp con gái trẻ đẹp vào thay thế chúng em. Anh đẹp trai thế, kiêu hùng thế, trước những ánh mắt khát khao của mấy cô gái trẻ, anh còn nhớ đến em nữa không. Xa hơn nữa, cuộc chiến tranh này còn dài lắm, mai ngày anh trở về, tuổi xuân của em đã qua đi, anh còn thương yêu em nữa không... Trời ơi. Sao ruột gan em rối bời thế này. Không hiểu khi biết em nhận được quyết định phục viên, anh sẽ ra sao? Ôi. Giá như chúng mình đã thành chồng vợ, giá như em có với anh một đứa con. Cuộc đời người con gái trong chiến tranh cũng mong manh lắm anh ơi.

Nhận được tin báo Lan đã có quyết định phục viên, Đỉnh đi như chạy về Trung đoàn bộ. Lòng anh cũng ngổn ngang không kém. Anh mừng vì em đã hoàn thành nhiệm vụ, trở lại hậu phương yên bình. Anh sẽ không còn phải lo bom đạn cướp mất em của anh. Em ơi, đường từ đây ra ngoài ấy cũng còn gian truân lắm. Mong sao em được bình an. Thế là từ nay, trong cuộc sống luôn đối mặt với cái chết này, anh không còn em bên cạnh. Anh không còn được nghe những lời lo lắng ngọt ngào của em mỗi khi bom đánh về phía cửa 10. Anh sẽ không còn được nghe những lời hờn giận cùng những giọt nước mắt xót xa của em khi em biết anh liều lĩnh trong bom đạn. Từ nay, mỗi khi tìm được nhành phong lan rừng, anh cũng chẳng còn cơ hội đến tặng em trong lấm lem bùn đất và khói bom. Và nữa. Em xinh đẹp thế, ra hậu phương, khi những cơn đói, cơn sốt rét rừng đã lui đi, em lại óng ả, nõn nà, liệu rồi em còn nhớ đến anh?...

Họ gặp nhau bên bờ suối. Nàng khóc nấc. Họ ôm chặt lấy nhau như sợ bỗng có một lý do nào đó, họ mất nhau.

- Anh ơi. Em đi rồi, anh còn nhớ đến em nữa không?

- Em đừng nói thế. Anh yêu em như thế nào, em biết rồi mà.

- Mai đây, những cô gái khác trẻ đẹp vào thay chúng em, anh có còn nhớ em không?

- Anh đang rối lòng vì phải xa em, sao em cứ hỏi những câu như thế.

- Anh có giữ mình để còn trở về với em không?

- Bom đạn biết thế nào mà nói hả em. Nhưng em tin rằng, từ nay, trong mạng sống của anh, có một phần của em đó. Em lại khóc rồi. Cuộc sống của anh, từ cái hôm anh và Hiến mang bao gạo vào cho trung đội gái, em đã là một phần không thể thiếu của anh rồi.

- Anh ơi. Em muốn làm vợ anh.

Nghe câu ấy, Đỉnh như nghẹt thở. Anh ôm chặt nàng vào lòng hơn. Hơi thở của nàng trở nên gấp gáp. Đỉnh cảm thấy không gian bỗng trở nên xanh ngắt lạ thường. Không còn tiếng vo ve của chiếc Tàu Càng, không còn tiếng bom gầm thét. Tất cả sao đáng yêu thế. Dòng suối róc rách, tiếng chim, tiếng gió. Trời ơi, bõ những ngày anh mong, anh đợi:

- Lan ơi, anh biết ơn em. Nếu em đồng ý, mình sẽ đề nghị đơn vị tổ chức lễ cưới trước hôm em đi. Hiếm lắm ở chiến trường có một đám cưới như của chúng mình.

- Anh ơi, em là của anh, anh là của em. Mình hãy giữ gìn cho nhau anh nhé. Ngay ngày mai, chúng mình sẽ lên báo cáo thủ trưởng.

Chàng trai và cô gái quân phục chỉnh tề đứng trước phòng làm việc của Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn. Ai đi qua cũng khen họ đẹp đôi. Chàng trai cao lớn, mặt vuông chữ điền, đôi mắt sáng và quả cảm. Cô gái khuôn mặt trái xoan, lông mi dài, dáng cao dong dỏng. Chiếc áo quân phục bó sát người, tuy không còn thật thon gọn, nhưng vẫn còn dáng dấp của một người thắt đáy lưng ong. Họ gõ cửa. Phía sau cánh cửa, một giọng nói oai vệ và lịch sự:

- Mời vào.

Đôi trai gái rụt rè bước vào:

- Chúng em chào thủ trưởng.

- Cô cậu có việc gì vậy?

- Báo cáo thủ trưởng, tôi là Nguyễn Đỉnh, Tiểu đội trưởng ở Cửa 10, trọng điểm Pha Bang. Tôi lên có mang theo thư của Chính trị viên Tiểu đoàn. Còn đây là đồng chí Phạm Hoàng Lan, trước canh van ở Cửa 11, mới lên công tác ở cơ quan Chính trị Trung đoàn. Chúng tôi yêu nhau đã được hai năm. Nay Lan có quyết định phục viên, chúng tôi lên báo cáo, và đề nghị thủ trưởng cho chúng tôi tổ chức lễ cưới để Lan yên tâm trở về hậu phương.

- Thế hả. Tốt. Mời cô cậu ngồi - Chủ nhiệm Chính trị Hoàng Trần chỉ cho họ ngồi xuống chiếc ghế bằng hai cây bương ghép lại, rồi ông chăm chú đọc lá thư của Chính trị viên Tiểu đoàn 66.

Kính gửi anh Hoàng Trần. Tôi giới thiệu với anh cậu Đỉnh, Tiểu đội trưởng ở cửa 10, và cô Lan ở Cửa 11, nay là nhân viên Ban Chính trị. Họ đều là những chiến sĩ rất dũng cảm, xông xáo. Hai năm nay, Đỉnh và Lan đã tìm hiểu và yêu thương nhau. Tôi đã biết điều này và ủng hộ cho hai đứa. Nay cô Lan có quyết định phục viên, hai đứa muốn đơn vị tổ chức lễ cưới để cô Lan về hậu phương yên tâm. Tôi thấy đây là nguyện vọng chính đáng. Mong anh ủng hộ việc này. Nếu anh đồng ý thì cấp cho chúng một cái giấy chứng nhận. Lễ cưới có thể tổ chức ở Tiểu đoàn hoặc Trung đoàn thì tùy anh. Chúc anh khỏe. Kính thư.

Trần Đình.

 

Hoàng Trần đặt lá thư xuống, lặng lẽ quan sát đôi trẻ. Cậu thanh niên này đẹp trai quá. Cô bé cũng khá xinh, nhưng trông đã già hơn so với cậu ta. Bây giờ đã vậy, sau này sẽ ra sao? Khi cái tuổi nó đuổi xuân đi rồi thì cô ấy có còn hạnh phúc nữa không? Chắc chắn là không. Còn nếu chúng nó thực sự yêu thương nhau thì để hòa bình, trở về, lúc ấy cưới đâu có muộn. Thêm nữa, giữa lúc bom đạn bời bời, cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn ngày nào cũng có thương vong, thì việc tổ chức lễ cưới tránh sao khỏi ảnh hưởng tới tinh thần bộ đội. Bởi vậy, không thể để chúng nó cưới nhau ở đơn vị được. Cái cậu Trần Đình này bị tình cảm chi phối quá. Chỉ thấy cái trước mắt, mà không thấy cái lâu dài xa hơn cho bọn trẻ. Hoàng Trần hít một hơi dài và nói hết ý nghĩ của mình. Ông đinh ninh đôi trẻ sẽ biết ơn ông. Nào ngờ, khi ông dứt lời, mặt cô gái tái đi, suýt nữa quỵ xuống. Ông không biết một trong những lý do để cô gái được phục viên, chính là bệnh tim của cô. Đỉnh đỡ cô gái ngồi dựa vào vách. Chính anh cũng không thể hình dung câu chuyện lại diễn ra như thế này.

- Báo cáo thủ trưởng. Chúng tôi đã yêu thương nhau cả lúc vui và lúc cận kề cái chết. Chúng tôi đã thề trọn đời bên nhau. Ngay cả cho dù ngay hôm nay, hay ngày mai, một trong hai chúng tôi không may bị thương, mù mắt, cụt tay chân, thì chúng tôi vẫn có nhau. Mong thủ trưởng cho chúng tôi một cái giấy của đơn vị xác nhận chúng tôi đã là vợ chồng.

- Này Đỉnh ơi. Xét về kinh nghiệm sống thì chắc chắn cậu không bằng tôi. Cậu còn lý thuyết lắm. Tôi đã chứng kiến nhiều sự bất hạnh của những cô gái lấy chồng trẻ. Nếu cậu thực sự thương cô ấy, thì hãy cho cô thời gian để chiêm nghiệm. Biết đâu, ra hậu phương cô ấy lại tìm được một hạnh phúc bền lâu hơn. Cậu thấy tôi nói đúng chứ? Hứ!

Đến lượt Đỉnh tái mặt. Ông ta đã xúc phạm Lan của anh, xúc phạm cả anh nữa. Đỉnh quên hết lễ tiết trên dưới:

- Thưa thủ trưởng. Tình yêu của chúng tôi đâu phải do thủ trưởng quyết định. Cái mảnh giấy chứng thực của đơn vị, dù có hay không thì chúng tôi cũng đã thuộc về nhau rồi. Vả lại, chúng tôi yêu nhau có gì là bất chính đâu. Chính trị viên Tiểu đoàn cũng ủng hộ tình yêu của chúng tôi.

- Sao? Cậu coi Chính trị viên Tiểu đoàn của cậu hơn tôi? Tôi có thể cách chức cả Chính trị viên của cậu, cậu hiểu không, hứ? Thôi. Tôi không nói lại nữa. Cô cậu hãy về suy nghĩ những điều tôi nói, hứ!

Đôi trai gái lặng lẽ ra khỏi phòng của Chủ nhiệm Hoàng Trần. Người Lan đã rũ xuống như tàu lá héo. Hoàng Trần bỗng cảm thấy thương họ. Họ trẻ quá, đâu hiểu hết sự đời. Chắc chắn, theo thời gian, họ sẽ hiểu ông hơn. Ông tự thấy hài lòng vì mình đã làm một việc đúng. Làm công tác chính trị là phải biết nhìn xa như vậy.

Đỉnh dìu Lan về tận lán, âu yếm đỡ cô nằm xuống. Lan run rẩy:

- Anh ơi. Anh đừng bao giờ bỏ em, anh nhé.

Đỉnh nắm chặt tay nàng trong bàn tay thô ráp của mình, anh hôn lên những ngón tay thuôn dài, xanh xao:

-  Thôi, đừng buồn nữa. Họ có nói gì thì chúng mình cũng đã thuộc về nhau rồi. Nói dại, em ra ngoài ấy, ở trong này, dù bom có xé anh thành trăm mảnh thì trong mỗi mẩu thịt xương của anh nằm lại giữa đại ngàn Trường Sơn này đều thấm đẫm tình yêu của anh với em.

Ngày hôm sau, Lan lên đường trở về. Chính trị viên Đại đội cho phép Đỉnh tiễn cô gái đến hết địa phận của Tiểu đoàn. Đó là một việc làm vượt quyền, nhất là trước đó, Đỉnh đã bị kỷ luật cảnh cáo vì dung túng cho đồng đội bỏ ngũ.

Con đường về của họ vẫn là lối đi quen thuộc dọc theo tuyến ống. Họ đi qua những nơi đã in dấu ấn của tình yêu. Đây là nơi lần đầu em tiễn anh và anh Hiến. Đây là nơi em đã quỵ xuống vì anh đã thoát chết trong loạt bom tọa độ, mang đến cho em cành hoa phong lan bê bết đất và khét mùi khói bom. Lan bẻ một nhành hoa rừng cắm lên mộ Thoan. Thoan ơi, chúng ta đã có ở đây một đoạn đời tuổi trẻ gian lao mà hào hùng. Nhưng em đã nằm đây mãi mãi với tuổi mười tám. Chị thì trở về, mang trong mình bệnh tim, sốt rét, nhan sắc tàn phai, nhưng chị có tình yêu, chị có anh Đỉnh. Thế là so với em và những người mang tuổi xuân xuống lòng đất, mà chưa biết đến một cái hôn, một cái nắm tay của người con trai, thì chị đã hạnh phúc lắm rồi. Lan nghẹn ngào: Thoan ơi. Nằm lại đây em nhé. Dù năm tháng có qua đi, dù chiến tranh rồi sẽ lùi xa, thì những người thắt lòng chôn đồng đội cùng tuổi xanh của họ trên đại ngàn này, chẳng biết nỗi đau rồi có nguôi ngoai?

Đêm xuống, đôi trẻ nghỉ lại trong một cái lán cũ bên dòng suối. Đỉnh lấy tăng lợp lên cái khung của căn nhà âu. Anh dọn dẹp thật sạch sẽ cái sạp nằm. Không ai có thể ngăn cấm tình yêu. Ánh trăng lọt qua tán lá, vẽ lên mái tăng những khoanh tròn như những bông hoa trang điểm cho giường tân hôn của họ. Họ đã trao cho nhau tất cả niềm yêu thương, tận hưởng mọi hạnh phúc mà cả hai cùng cố dồn nén bấy lâu, vì sợ bị kỷ luật, vì sợ cái điều người ta vẫn kiêng kỵ ở chiến trường. Không còn bất kỳ một sức mạnh nào có thể ngăn nổi họ. Họ thuộc về nhau, để rồi từ đây, dù chiến tranh diễn ra thế nào, dù bất hạnh đến với mỗi người ra sao, họ vẫn có nhau để đi hết cuộc đời.

Tiếng những con chim rừng ríu rít đánh thức Đỉnh dậy. Bên anh, Lan vẫn say trong giấc ngủ. Khuôn mặt xanh xao, nhưng tràn đầy hạnh phúc và mãn nguyện. Chẳng có giấy chứng nhận của đơn vị, anh sẽ gửi lá thư này về cho cha mẹ để em được nhận làm con dâu. Cầu trời, đêm qua, đêm hạnh phúc, thần tiên của chúng mình sẽ đơm hoa kết trái. Đỉnh mơ thấy khi anh trở về, bước qua cái cổng xây cổ kính phía sau lăng Hoàng Cao Khải, sẽ có một cậu bé lon ton chạy ra chào bố. Anh sẽ ôm cả nó và Lan vào vòng tay trận mạc của mình. Anh vừa viết thư về nhà, vừa ngắm Lan. Mong sao em ra đến hậu phương bảo trọng và cố gắng gìn giữ những gì chúng mình đã có.

 

Theo báo cáo của Tiểu đoàn 66 thì bờ nam sông Sê Bang Hiêng trong khu vực trọng điểm Pha Bang lâu nay ít bị dính bom B52 hơn vì tuyến đường ô tô và tuyến ống có xu hướng đi sát chân núi phía bắc. Tuy nhiên, bờ nam sông là khu vực dày đặc bom nổ chậm và bom từ trường, hàng năm nay chưa được phá. Giữa buổi chiều qua, Lê Trọng lên cơn sốt dữ dội. Ông quàng chăn cho đỡ lạnh, điều khiển cuộc họp với Ban Tham mưu và Kỹ thuật Trung đoàn để bàn kế hoạch thi công tuyến tránh bờ nam sông. Suốt đêm qua, ông sốt bốn mươi độ. Một chút cháo bữa chiều và thuốc uống đã theo những cơn nôn thốc tháo ra hết cùng mật xanh mật vàng. Cơn sốt đến, người ông run bần bật, mồ hôi vã ra như tắm. Ông đã từng qua những cơn sốt rét trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ở tuyến Hướng Tây, ông cũng đã sốt, nhưng sao lần này, cơn sốt lại đến dữ dội vậy. Bác sĩ Trung đoàn cử một y tá luôn ở bên ông, đề phòng sốt chuyển sang ác tính.

Lê Trọng tỉnh dậy sau một giấc ngủ mê man. Hôm nay tổ khảo sát bờ nam sông lên đường. Ngọc là một cán bộ khảo sát dũng cảm và giàu kinh nghiệm. Tuy nhiên, đoạn tuyến phía nam sông biết bao hiểm nguy rình rập. Cầu mong chúng nó đi an toàn. Ông gọi cậu Diễn, công vụ đến:

- Hỏi giúp tổ khảo sát của Ngọc lên đường chưa?

Diễn nhấc điện thoại gọi xuống Tiểu Ban Kỹ thuật, rồi đáp:

- Báo cáo. Các anh ấy bắt đầu xuất phát.

- Lấy giúp mình cái ba lô - Trọng chỉ lên chiếc ba lô trên giá - Trong túi cóc có hai lọ sâm Triều Tiên. Đúng nó đấy.

- Thủ tưởng định uống cho lại sức ạ?

Cậu y tá chạy lại. Cậu ta nhận ra ngay đây là lọ sâm viên chỉ phát cho bộ cấp Trung đoàn trở lên trên tuyến Trường Sơn:

- Thủ trưởng đang bệnh. Nếu thủ trưởng muốn uống, xin để tôi mời bác sĩ đến hướng dẫn.

- Không. Mình không uống đâu. Đưa cho bọn thằng Ngọc.

Diễn nhanh nhảu:

- Giờ các anh ấy sắp qua ngõ mình rồi. Thủ trưởng để tôi mang ra cho họ.

- Không được, phải là mình trực tiếp đưa.

Lê Trọng đứng dậy. Diễn và cậu y tá chạy lại đỡ cho ông khỏi ngã.

- Diễn ra ngõ, nếu anh em đi qua, bảo đứng đấy chờ mình.

Ông chống gậy run rẩy bước ra ngoài. Cậu y tá dìu ông đến ngã ba đúng lúc tổ của Ngọc đi tới.

- Ngọc ơi - Ông gọi bằng một giọng yếu ớt - Lần này đi vất vả và nguy hiểm đấy. Mình chẳng có gì ngoài mấy viên thuốc bổ này. Anh em đi, mệt quá thì ngậm cho lại sức.

Ngọc và anh em tổ khảo sát xót xa nhìn Trung đoàn trưởng hốc hác, xanh xao, đứng không vững:

- Thủ trưởng ơi. Thủ trưởng mệt thế, xin thủ trưởng giữ lấy những viên thuốc này bồi dưỡng. Chúng tôi là thanh niên, lại chịu đựng gian khổ quen rồi.

- Hãy cầm lấy cho mình vui đi. Ở nhà, mình ốm đã có quân y.

Ôi. Lê Trọng ơi. Anh có mặt ở mọi nơi gian khổ ác liệt nhất. Biết anh nhiều rồi, mà vẫn chưa hiểu hết. Anh là người chỉ huy, hay là người cha đang lo lắng cho những đứa con trước khi lâm trận. Ngọc đón hai lọ sâm trong tay Trung đoàn trưởng mà không sao cầm đươc nước mắt. Anh nghẹn ngào:

- Xin thủ trưởng yên tâm. Chúng tôi nhất định hoàn thành nhiệm vụ.

 

Tổ khảo sát của Ngọc có ba người. Tiểu đoàn 66 cử thêm Đỉnh, Tiểu đội trưởng ở Cửa 10 cùng đi để dẫn đường. Hai năm bám trụ, Đỉnh là một trong số ít người hiểu rõ từng khúc suối, mô đá, hố bom trên trọng điểm. Ngọc đặt tấm bản đồ lên một mỏm đá:

- Đây sẽ là nơi tuyến tránh gặp tuyến cũ. Như vậy từ Q200 đến Q5 sẽ có hai điểm vượt sông Sê Bang Hiêng.

Đỉnh nói:

- Mùa mưa vừa qua, để chặn các phuy xăng thả trôi sông, đề phòng có tuyến ống đi qua, địch đã thả rất nhiều bom từ trường, một số đang nằm dưới lòng sông, một số ở trên bờ. Tôi đề nghị đi trên tuyến này, chúng ta không mang theo vũ khí và bất cứ thứ gì có sắt thép. Địa hình tương đối trống trải, mọi người cần ngụy trang kỹ để tránh thằng OV-10.

Đỉnh nói không sai. Bờ nam sông là một rẻo đất hẹp. Chỗ rộng nhất chỉ hơn ba mươi mét. Có những chỗ đá chờm sát ra bờ sông. Mùa mưa vừa rồi, địch chặn phá đường sông nên hố bom chồng lên hố bom. Những đám cỏ tranh và rau tàu bay bắt đầu nhô lên khỏi mặt đất. Tuy vậy, những hố bom mới nối nhau vẫn tạo nên một bờ sông lở lói. Điều đáng ngại nhất là bom nổ chậm và bom từ trường nằm rải rác dọc bờ sông suốt đoạn đối diện với trọng điểm Pha Bang. Trước một cái hang nhỏ, mà Đỉnh gọi là hang Gấu Đen, vì tại đây, họ đã gặp một chú gấu đen phi từ trong hang ra, chạy lên núi, là một bãi bom từ trường. Những cái đuôi bom màu xám đứng thành một đám dày đặc. Cái thì nhô cả thân đuôi lên khỏi mặt đất như hình cái oản. Cái thì những cánh bom xòe trên mặt đất như những bông hoa của tử thần. Cái bị đất của những quả bom sau vùi lấp một phần. Chính Đỉnh cũng không ngờ bom từ trường nhiều đến vậy. Ngọc cho khoanh những vị trí có bom từ trường và bom nổ chậm để có kế hoạch đưa công binh vào rà phá. Công việc phải rất thận trọng. Bom nổ chậm mà nổ bất chợt thì đó là số phận, nhưng thằng Tàu Càng vo ve trên đầu thì là con cú vọ săn mồi độc ác, không được phép để lộ. Tối hôm ấy, tổ khảo sát nghỉ lại hang Gấu Đen. Một cái hang không lớn, nhưng đủ kín đáo và có thể trải tăng xuống nền ngủ. Không mang theo xoong nồi thì ăn lương khô và uống nước bi đông. Đêm, những trận B52 bên kia sông làm hang cũng chuyển rung như đưa võng. Suốt đêm, nằm cạnh Đỉnh, Ngọc nhận thấy cậu ta cứ trở mình liên tục:

- Không ngủ được hả Đỉnh?

- Khó ngủ quá. Tôi nhớ người yêu.

- Ở cơ quan Trung đoàn, ai cũng biết chuyện của cậu và Lan. Mọi người đều bất bình với ông Hoàng Trần.

- Tôi không hiểu sao ông ấy lại tự cho mình cái quyền quyết định cuộc sống của chúng tôi trong tương lai. Không những vậy, ông còn nói những câu xúc phạm đến Lan. Tội nghiệp cô ấy quá. Từ lúc ra khỏi phòng ông Trần, cô ấy buồn lắm. Đã ốm sẵn, bây giờ người gầy rộc. Ông ấy không những không đồng ý cho chúng tôi lấy nhau, lại còn gieo vào Lan nỗi lo sau này già rồi, tôi không còn yêu cô ấy nữa.

- Thôi, bỏ qua đi. Tình yêu và lòng chung thủy là ở mình, không thể do ai định đoạt.

Đêm hôm ấy, Đỉnh và Ngọc bỗng trở nên thân thiết. Qua Đỉnh, Ngọc hiểu và khâm phục hơn những người lính bám trụ trên trọng điểm Pha Bang, hiểu sâu hơn về quy luật đánh phá của địch. Đỉnh đã kể cho Ngọc nghe toàn bộ thiên tình sử giữa anh và Lan. Anh nói cho vơi nỗi nhớ. Mỗi tiếng Lan phát ra, anh vẫn cảm thấy nó thiêng liêng, trân trọng. Ngọc cũng kể cho Đỉnh nghe về mình. Họ đều lớn lên ở Hà Nội nên cũng có nhiều điều tâm sự.

Phải mất thêm một ngày cật lực họ mới hoàn thành việc khảo sát bảy cây số bờ nam sông và nơi tuyến ống vượt sông. Ngọc cẩn thận vẽ thành sơ đồ các vị trí có bom, các vị trí có thể đưa ống vượt sông, những chỗ có thể giấu ống. Vậy là việc khảo sát, định tuyến ở nam sông coi như hoàn thành tốt đẹp.

Mất một tuần lễ cho việc lập kế hoạch chi tiết và chuyển ống đến các vị trí. Vừa cắt cơn sốt, Lê Trọng đã xuống Ban Kỹ thuật:

- Ngọc, dẫn mình đi kiểm tra tuyến.

- Báo cáo thủ trưởng, tuyến nguy hiểm lắm, dày đặc bom nổ chậm và bom từ trường. Xin để anh em dọn dẹp xong thủ trưởng hãy đi.

- Đây là việc thành bại trong mùa khô đầu tiên của Trung đoàn. Mình đã chỉ thị các cơ quan phải bám tuyến. Trung đoàn trưởng mà có mặt thì không ai còn có thể chối từ. Thêm nữa, mình đã xem phương án tập kết ống của cậu theo nguyên tắc vận trù. Lý thú đấy, vì nó tiết kiệm được sức lao động của bộ đội. Tuy nhiên, ở chiến trường, còn phải xem xét đến các yếu tố địch tình nữa. Đó là trách nhiệm của chỉ huy.

Biết không thể ngăn được Trung đoàn trưởng, Ngọc cùng Lê Trọng và Diễn lên đường. Đỉnh vẫn là người dẫn đường qua đoạn bờ sông dày đặc bom. Lần này chỉ mất một ngày, họ đã thị sát xong tuyến. Buổi chiều, sau khi bơi qua sông, cả bốn người mệt lử. Riêng Ngọc, mất mấy đêm thức rất khuya tính toán phương án tập kết ống, được một tối rảnh, sau khi ăn cơm chiều, anh mắc võng ngủ vùi. Hôm sau, khi mặt trời nhô lên khỏi dãy núi đá, Ngọc mới tỉnh dậy. Anh vươn vai, cảm thấy sảng khoái sau một đêm ngủ bù. Diễn và Đỉnh đang nấu bữa cơm sáng. Ngọc hỏi:

- Thủ trưởng Lê Trọng đâu?

- Cụ ấy đang giặt quần áo dưới suối.

Ngọc nhìn lên cành cây đầu võng. Nơi vắt bộ quần áo lấm lem bùn đất chiều qua trút xuống, định hôm nay giặt, không thấy đâu. Anh toan chạy xuống suối thì thấy Lê Trọng đi lên, cười rất tươi, trên tay cầm mấy bộ quần áo, có cả quần áo của anh.

- Ôi. Sao thủ trưởng lại giặt quần áo cho tôi?

- Cậu mệt quá ngủ như chết. Mình không ngủ được, tiện giặt luôn cho cả hai anh em. Có gì sai đâu.

- Thủ trưởng làm tôi khó nghĩ quá. Ngay cả quần áo của thủ trưởng, để Diễn nó giặt, thủ trưởng còn phải làm nhiều việc khác quan trọng hơn chứ ạ.

- Anh em mình cả mà. Buổi sáng là giờ thể dục. Giặt quần áo cũng là thể dục, đúng không?

Ngọc không biết nói gì hơn. Trong anh bỗng trào lên một tình cảm thật lạ. Nó cao hơn sự cảm động, nó có gì đó sâu nặng như tình cha con. Một trung tá giặt quần áo cho một thiếu úy. Thấy như ngược đời quá. Nhưng có lẽ đó là cái tạo nên nét riêng của một vị chỉ huy như Lê Trọng. Có một người chỉ huy như vậy, Ngọc bỗng thấy dù mình cố gắng đến bao nhiêu cũng chưa đủ.

 

Ngay trong ngày Tết dương lịch của năm 1971, Trung đoàn ra quân thi công chuyển tuyến từ bờ bắc sang bờ nam ở khu vực trọng điểm Pha Bang. Đoạn tuyến dài bảy cây số. Ống được kết thành từng bè, bí mật chuyển sang phiá nam sông vào lúc tờ mờ sáng và chập choạng tối. Công binh và lính Tiểu đoàn 66 tiến hành phá bom từ trường và bom nổ chậm. Qua ba ngày, họ đã phá hết số bom trên tuyến. Riêng trước cửa hang Gấu Đen, Miên đã cùng công binh phá được hai mươi bảy quả bom từ trường. Sang ngày thứ tư, khi ống đã tập kết ở các vị trí theo kế hoạch, các Đại đội bắt đầu rải ống, lắp ráp. Để tránh con mắt cú vọ của bọn Tàu Càng, họ đào rãnh, ngụy trang, lắp ống đến đâu lấp ngay đến đó. Cũng may hầu hết tuyến là đất từ hố bom quật lên, nên đào khá dễ dàng. Khi rải ống đến khu vực hang Gấu Đen, Đỉnh bỗng thấy có gì đó bất an. Anh chỉ vùng đất đỏ ối, nói với Đại đội trưởng:

- Báo cáo Đại đội trưởng. Đoạn tuyến này bây giờ toàn là đất do các quả bom bị kích nổ đào lên. Chẳng có gì đảm bảo dưới lớp đất này không còn những quả bom từ trường bị vùi lấp.

Miên nói:

- Mày yên tâm đi. Trước khi phá, tao đã kiểm tra rất kỹ đánh dấu từng quả một. Có hai mươi bảy quả cả thảy. Đã đủ hai mươi bảy tiếng nổ rồi. Tao còn đeo súng chạy trên bãi bom vừa phá, không có chuyện gì mà.

- Tao không nghi ngờ mày cẩu thả đâu. Tao hiểu tính mày rồi. Có điều, chỉ sợ có những quả bị vùi lấp mà mình không phát hiện được.

- Vậy bây giờ phải làm thế nào? - Đại đội trưởng hỏi.

- Tôi sẽ vác ống đi dọc đoạn này. Rủi còn sót quả nào thì chỉ một người bị.

- Thôi. Để tao đi cho. Tao chịu trách nhiệm về việc này mà - Miên gạt Đỉnh ra.

-  Không nói chuyện trách nhiệm ở đây. Nếu tao hướng dẫn tổ phá bom, thì cũng chỉ có thể làm được như mày thôi. Đây chỉ là kiểm tra cho chắc thôi mà.

Không để Miên kịp nói gì, Đỉnh vác ống xăm xăm đi lên phía trước. Thực ra, nếu không đặt vấn đề ra thì thôi, khi Đỉnh nêu vấn đề, cả Đại đội bỗng cảm thấy căng thẳng. Đoạn tuyến chỉ hơn một cây số, mà mỗi bước chân của Đỉnh đều làm anh em lo lắng đến nghẹt thở. Có vẻ như mọi việc sẽ yên ổn. Cái dáng cao lớn của Đỉnh với chiếc ống trên vai xa dần, rồi khuất sau mỏm đá. Miên nhẩm tính: Đó là điểm cuối của bãi bom. Đúng vào lúc ấy, sau mô đá phát ra một tiếng nổ long trời. Một cột khói và đất đá bốc lên. Trong cái đám hỗn độn ấy có cả thân hình của Đỉnh cùng chiếc ống. Miên quỵ xuống:

- Trời ơi. Tao giết mày rồi Đỉnh ơi.

Tổ cấp cứu của Đại đội bới được Đỉnh trong đống đất bom, bên cạnh cái ống thép bị bẻ gập, quăn queo. Cả thân mình Đỉnh như bị vo viên lại, máu trào ra tai, ra mũi. Máu chảy ra từ trên đầu, từ khắp mình, trộn với bột đất, đặc quánh. Cả người Đỉnh chỉ còn như một khối mềm nhũn, bê bết máu  trộn với đất bom. Miên vừa khóc, vừa sửa lại chân tay bạn cho ngay ngắn, đặt lên chiếc băng ca. Một chiếc bè kết bằng nứa đưa Đỉnh vượt sông. Mọi người thay nhau cáng Đỉnh đi như chạy đến trạm phẫu thuật.

Miên trở về hang Tiểu đội khi trời đã tối mịt. Mệt và đau khổ, anh đổ vật xuống tấm ván quen thuộc mà Đỉnh vẫn nằm. Đỉnh ơi. Sao mày không để tao đi cho. Mà sao tao lại không nghĩ ra cách kiểm tra như mày cơ chứ. Giờ người ta đưa mày đi rồi, nhưng người ta có cứu nổi mày không? Một mình mày đã thay cả Đại đội lĩnh trọn trái bom từ trường. Ô tô còn tan nát huống chi con người. Tao biết nói thế nào với bố mẹ mày đây, Đỉnh ơi? Miên trân trân nhìn lên vòm hang. Cái hang nhỏ bé này đã mấy lần vợi người đi, mấy lần thay người mới. Sao hôm nay bỗng thấy trống trải thế này. Ba thằng lính Hà Nội, bây giờ còn mình Miên. Bỗng nhớ đến Hiến, Miên khơi to ngọn đèn, xé từ cuốn sổ tay một tờ giấy. Anh viết thư về hậu phương.

 

Hiến ơi. Thằng Đỉnh chắc hy sinh rồi. Trước khi Đại đội rải ống, nó cứ nhất định yêu cầu Đại đội trưởng cho nó vác ống kiểm tra lại lần cuối bãi bom trước hang Gấu Đen. Một mình nó đã lãnh trọn một trái bom. Tao đau khổ quá. Tao và tổ công binh đã kiểm tra đi kiểm tra lại mấy lần, mà mà không biết còn một trái bom từ trường bị vùi sâu dưới đất. Mẹ và em gái mày ra sao rồi? Mày đi, thằng Đỉnh đã giải thích cho anh em. Họ cảm thông cho mày. Nhưng nó vẫn bị cảnh cáo vì "dung túng cho bạn đào ngũ". Ông Trần Đình và Chính trị viên Đại đội lên gặp ông Hoàng Trần xin giảm nhẹ cho nó, nhưng không được. Nó âm thầm chịu đựng. Cả Tiểu đội thương nó. Vừa rồi, cái Lan phục viên, hai đứa lên gặp ông Hoàng Trần xin đơn vị tác thành. Ông ấy dứt khoát không đồng ý. Cả tuần vẫn ra tuyến mà nó chẳng thiết ăn uống gì, thật tội quá. Nỗi buồn ấy còn nặng trong lòng mà nó đã... Thôi. Tao chẳng muốn viết gì thêm nữa. Thương nó quá. Mày cố gắng lui tới nhà nó, động viên, an ủi các cụ hộ tao. Cả cái Lan nữa nhé. Giờ ba thằng Hà Nội, chỉ còn mình tao ở trọng điểm. Mày phải về là vì hoàn cảnh gia đình. Tao sẽ tiếp tục ở lại đây bám trụ cho cả phần mày và thằng Đỉnh.

 

Sau ba tuần lễ vật lộn với bom đạn, hàng chục người nữa ngã xuống vì những trận tập kích bất ngờ, vì những trái bom từ trường dưới lòng sông bất chợt nổ, cuối cùng tuyến tránh nam sông Sê Bang Hiêng đã hoàn thành. Việc thử rửa và bơm xăng vào bản Cọ trót lọt. Từ kinh nghiệm qua hai năm chỉ huy đường ống, Lê Trọng hiểu rất rõ việc bơm xăng trót lọt chỉ là tạm thời. Rồi những trận B52, bổ nhào, tọa độ ở bờ bắc sông sẽ lại có những trái bom rơi xuống bờ nam, lại trúng tuyến, lại cháy, lại bom đạn quần nát. Việc tránh tuyến sang bờ nam sẽ hạn chế đáng kể việc vạ lây khi bom đánh đường ô tô, nghĩa là nó đã giảm được bảy mươi phần trăm cường độ bom rơi lên tuyến ống và hy vọng thời gian tuyến yên ổn sẽ được kéo thêm vài ba giờ giữa hai trận đánh phá. Nếu vẫn giữ chiến thuật vận hành như trước đây, nghĩa là hết mỗi đợt vận hành lại bơm lót nước vào ống, sẽ mất cơ hội đưa xăng qua trọng điểm. Ông đã triệu tập Ban Kỹ thuật và Ban Tham mưu để bàn kỹ vấn đề này. Sau những tranh luận, những tính toán, cuối cùng mọi người thống nhất: từ nay không lót nước lên tuyến nữa. Nếu tuyến ống giữa hai đợt vận hành không bị trúng bom, thì đợt vận hành sau đó chỉ khởi động máy bơm đầu nguồn Q200 khoảng nửa giờ là xăng chảy vào bản Cọ, thay vì phải chờ tới mười tiếng đồng hồ. Bờ nam cần bố trí thêm các van chặn tuyến để giảm bớt tổn thất xăng trong ống khi tuyến bị trúng bom. Tất cả những biện pháp đó đã nâng hiệu suất vận hành lên sáu mươi ba phần trăm, rồi trên bảy mươi phần trăm. Nhờ vậy, xăng cấp phát ở Q6 để đưa đến cho các binh trạm đã dồi dào hơn, và có chân hàng để xăng vào tới Q7.

 

Chúng nó lại đánh trúng tuyến. Thằng An lao ra đóng van, bị bỏng mặt và hai tay. Thằng Đạt bị một viên bi găm vào bắp chân. Hai đứa còn lại thì đang sốt rét hầm hập. Thằng Hùng lên Đại đội nhận thực phẩm, thuốc quân y chưa về. Cả năm người ở nhà, chỉ còn Miên là khỏe mạnh. Sau khi tuyến nắn về bờ nam sông, Tiểu đội đã chuyển vào hang Gấu Đen. Đỉnh đi rồi, Miên bây giờ là Tiểu đội trưởng. Miên nhìn lên vách hang, còn nguyên mới dòng chữ: Sống, chiến đấu theo gương Nguyễn Đỉnh. Đây là khẩu hiệu được viết lên từ khi Trung đoàn phát động phong trào thi đua noi theo tấm gương quên mình của Nguyễn Đỉnh. Đỉnh ơi. Từ khi xăng bơm ở bờ nam sông, cuộc chiến đấu vẫn còn cơ cực lắm, nhưng chúng tao vẫn vững vàng. Nhìn số gạo hẩm còn lại trong thùng, chút muối trắng và mấy phong lương khô, Miên thấy xót lòng. Thương binh và bệnh binh sao nuốt nổi những thứ này. Anh đưa cho mỗi người một phong lương khô và bi đông nước:

- Chúng mày chịu khó nuốt tạm, chờ tao đi kiếm mấy con cá về nấu cháo. Tao biết có một vũng suối nhiều cá quả lắm.

- Mày đi cẩn thận nhé, đặc biệt là khi nổ bộc phá. Cả tiểu đội trông vào mày đấy.

- Yên tâm đi, tao kinh nghiệm đầy mình trong cái việc đánh cá này rồi.

Miên khoác súng, cầm theo cái túi, thỏi bộc phá, cái kíp và mẩu dây cháy chậm. Anh ngược dòng suối đến bãi đá. Ở đó có một vũng nước sâu. Hay quá, những chú cá quả to bằng bắp tay đang vô tư bơi lội. Miên hiểu rằng, bọn này chỉ cần thấy động là chui ngay vào hang. Bộc phá nổ, dù chúng có chết hay bị sức ép cũng chẳng biết đâu mà tìm. Phải cắt dây cháy chậm thật ngắn để chúng không kịp xoay xở. Miên nhìn lên trời, nắng gắt quá. Nắng đến mức khó có thể nhận ra ngọn lửa đã bắt vào dây cháy chậm. Không sao, đoạn dây năm bảy phân, chỉ cần mình thận trọng một chút là được. Khi lửa đã bùng lên đầu que diêm, Miên đưa vào đầu dây cháy chậm. Được rồi, lửa đã xì ra từ đầu dây. Miên nhằm vào chỗ đàn cá đang bơi, ném thỏi TNT vào đó. Thỏi TNT chưa kịp rời khỏi tay anh, đã phát nổ. Miên gục xuống tảng đá. Máu tuôn ra từ hốc mắt, từ hai cánh tay.

Vất vả lắm, những người bạn bị ốm và bị thương mới đưa được Miên về hang. Đôi bàn tay Miên đã bị xé nát, và đôi mắt của anh cũng sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy được nữa. Ba người thương binh được chuyển lên Đội điều trị. Còn lại ba người: Hùng và hai người bạn sốt rét trụ lại.

 

Dù ở bờ bắc hay nam sông, Cửa 10 vẫn giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ tuyến ống. Giờ còn ba người, trong đó chỉ có một người còn khỏe, phải bổ sung ngay lực lượng. Tuy nhiên, theo Chủ nhiệm Chính trị Hoàng Trần thì cách xử lý của Ban chỉ huy Tiểu đoàn 66 đối với cậu Miên là không thể chấp nhận được. Ông đề nghị Chính ủy Khuynh triệu tập một cuộc họp để bàn về về việc giữ kỷ luật bộ đội trong điều kiện chiến đấu ác liệt. Chính trị viên Tiểu đoàn 66 và Chính trị viên Đại đội 14 được triệu tập đến để giải trình về những việc xẩy ra. Hoàng Trần mở đầu cuộc họp:

- Vừa qua ở Đại đội 14 xẩy ra một số vụ việc vi phạm kỷ luật. Đây là nơi ác liệt, cần giữ nghiêm kỷ luật quân đội, nhưng tôi thấy cả cách giải quyết của Chính trị viên Đại đội và Chính trị viên Tiểu đoàn đều sai lầm. Đầu tiên là cậu Đỉnh dung túng cho bạn đào ngũ, cả anh Trần Đình lẫn anh Nhấn, Chính trị viên Đại đội đều lên xin giảm kỷ luật. Với vi phạm ấy, lẽ ra Đỉnh phải bị khai trừ Đảng, do ý kiến của đơn vị, cậu ấy chỉ bị cảnh cáo. Có lẽ vì quá nương nhẹ, nên cậu Đỉnh lại phạm một sai lầm nữa - Ông hướng đôi mắt nghiêm khắc về phía Trần Đình và Chính trị viên Nhấn - Riêng cái việc yêu đương, sao nhãng nhiệm vụ chiến đấu đã đáng phê bình rồi, cậu ấy và cô Lan lại còn đòi đơn vị tổ chức lễ cưới giữa lúc ngày nào đơn vị cũng có người thương vong. Bây giờ lại xẩy ra chuyện cậu Miên mang bộc phá đi đánh cá bị thương. Vô kỷ luật như vậy mà Đại đội, Tiểu đoàn vẫn đề nghị giải quyết chính sách thương binh cho cậu ấy, có thỏa đáng không? Làm công tác chính trị mà như thế có phải là vị tình không? Hứ!

Đây giống như một cuộc họp Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn mở rộng, không phải chỉ có quan hệ cấp trên và cấp dưới như những lần Hoàng Trần gọi lên, nên Trần Đình cảm thấy vững tin hơn khi đứng lên phát biểu. Ông đã phải dằn lòng nghe Trần Đình nói, và để hạ hỏa trong người, ông cố nén, không bật lại phản ứng ngay, cho đến khi được Chính ủy Khuynh chỉ định phát biểu:

- Trước hết, tôi đề nghị chúng ta không nên xúc phạm đến đồng chí Đỉnh - Trần Đình chậm rãi - Đồng chí ấy đã hy sinh tính mạng để cứu cả Đại đội. Chúng ta thử hình dung, nếu không có việc Đỉnh vác ống đi trước một mình, thì điều gì sẽ xẩy ra khi cả Đại đội nối nhau vác ống đi qua.

- Không nói thế được, việc gì ra việc nấy! - Hoàng Trần nghiêm giọng nói xen vào.

- Tôi đề nghị đồng chí Trần để đồng chí Đình nói hết đã - Chính ủy Khuynh nhẹ nhàng.

- Việc dung túng cho đồng đội đào ngũ là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, Đỉnh là một chiến sĩ rất xông xáo, dũng cảm, thương yêu anh em. Tôi đã trực tiếp đọc lá thư nhà của Hiến. Thương tâm lắm. Chúng ta ở xa cậu Hiến, ta có thể xử một cách lạnh lùng, nhưng Đỉnh là bạn thân của Hiến, cậu ấy không thể cầm lòng. Thêm nữa, cả Tiểu đoàn này, có ai không biết Hiến là một trong những người dũng cảm nhất. Cậu ấy bỏ ngũ hoàn toàn không phải vì hèn nhát. Đến bây giờ, cả tôi và đồng chí Nhấn vẫn cho rằng hình thức kỷ luật cảnh cáo đối với Đỉnh có thể giảm xuống đến mức khiển trách.

- Tôi muốn nghe về việc của cậu Miên... Yêu cầu đồng chí Nhấn báo cáo rõ hơn việc này - Hoàng Trần nghiêm khắc.

- Thưa các thủ trưởng. Đỉnh, Miên và Hiến đều là lính Hà Nội. Họ đều là những người dũng cảm, bám trụ ở điểm ác liệt nhất trên tuyến của Trung đoàn. Sau trận bom của địch cách đây mấy hôm, hai cậu trong Tiểu đội bị thương vì cứu tuyến. Hai người sốt rét đang sốt cao. Không có gì bồi dưỡng cho họ, Miên đi đánh cá để nấu cháo cho họ. Rất tiếc do bất cẩn nên cậu ấy đã bị thương nặng. Theo thông báo từ Đội điều trị, Miên đã bị cắt mất hai cánh tay, và đã mù hai mắt. Cậu ấy tàn phế vì thương đồng đội, vì muốn chăm sóc họ. Xét cho cùng, là để bảo đảm sức chiến đấu cho đơn vị. Một hành động cao quý như vậy, lẽ nào ta lại bỏ mặc, ném họ ra cuộc đời như một người tàn phế ngẫu nhiên trong xã hội.

- Tôi yêu cầu đồng chí Nhấn nói cho nghiêm túc. Việc giải quyết chính sách thương binh liệt sĩ là chủ trương cao quý của Đảng, không được dùng từ ngữ tùy tiện như vậy - Hoàng Trần bức xúc.

Chính ủy Khuynh  yêu cầu Hoàng Trần giữ bình tĩnh để nghe cho hết ý kiến của Chính trị viên Tiểu đoàn và Chính trị viên Đại đội.

Cuộc thảo luận không quá gay go, vì Miên đã bị thương quá nặng, lại vì xuất phát từ tình thương đồng đội, nên không ai nỡ nói gay gắt như Hoàng Trần. Trợ lý Chính sách của Trung đoàn tỏ ra lúng túng. Một mặt rất thương Miên, nhưng mặt khác chiếu vào các quy định, lại có ý kiến của thủ trưởng trực tiếp, nên anh ta nói nước đôi:

- Trường hợp của đồng chí Miên là rất thương tâm. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định hiện hành, tôi đề nghị các thủ trưởng giải quyết sao cho có lý, có tình.

- Đồng chí là trợ lý chính sách mà nói như người làm từ thiện - Chính ủy Khuynh nhắc - Là người giúp việc cho Đảng ủy, tôi muốn nghe đồng chí đưa ra phương án của mình.

Trợ lý chính sách rụt rè nhìn Hoàng Trần. Hoàng Trần nhìn thẳng vào anh ta:

- Đồng chí nói đi, và luôn nhớ bao giờ cũng phải giữ đúng nguyên tắc của Đảng. Hứ!

- Báo cáo. Hôm qua tôi đã trực tiếp đến Đội điều trị thăm Miên. Cứ nhìn cái cách anh em cùng Tiểu đội chăm sóc cho cậu ấy, thì biết họ yêu quý Miên đến mức nào. Tôi đề nghị các thủ trưởng xét thương binh cho cậu ấy.

Hoàng Trần toan đứng dậy nói thì Chính ủy ngăn lại:

- Anh Trần không phải nói nữa. Đồng chí Trợ lý Chính sách kịp thời đến thăm thương binh như vậy là tốt. Tôi đề nghị anh Hoàng Trần khi có điều kiện, nên thu xếp xuống với anh em, kể cả những nơi ác liệt nhất như hang Gấu Đen. Những người đề ra các quy định về kỷ luật là để giữ vững sức mạnh của quân đội. Tuy nhiên, trong cuộc chiến tranh tàn khốc này, mọi quy định đều phải phân tích từ điều kiện chiến đấu cụ thể của từng người lính. Họ là tế bào tạo nên sức mạnh của quân đội. Ta có thể kỷ luật thật nặng một người vi phạm để răn đe. Nhưng nếu việc kỷ luật không thỏa đáng có thể gây bức xúc không chỉ cho bản thân người ấy, mà còn cả cho đồng đội của họ. Với trường hợp của Miên, chúng ta hãy thử đặt câu hỏi: Nếu đó là con trai mình? Hoặc chúng ta hãy đặt mình vào cái nhìn của những người lính sốt rét và bị thương hôm đó đang chờ một bát cháo để lấy lại sức. Họ sẽ nghĩ thế nào khi người đồng đội chỉ vì muốn chăm sóc họ mà cuộc đời đã vĩnh viễn mất đi đôi mắt, đôi tay, bị đuổi về hậu phương trong tình cảnh tàn phế và án kỷ luật? Cả chính sách và kỷ luật trong chiến trường đều mang tính con người rất sâu sắc. Bởi lẽ đó, tôi hoàn toàn nhất trí làm thủ tục thương binh cho Miên. Không những thế, tôi sẽ đích thân đến Đội điều trị thăm cậu ấy.

Ra khỏi phòng họp, Trần Đình và Nhấn cảm thấy trong lòng nhẹ bẫng. Họ là những người lăn lộn cùng anh em trong ác liệt, họ hiểu rất rõ hậu quả sẽ ra sao nếu giải quyết chính sách cho Miên không thỏa đáng.

 

Giữa lúc tình hình vận hành qua trọng điểm Pha Bang được cải thiện rõ rệt thì một tin dữ được báo cáo lên Trung đoàn: Một buổi sáng, trời đầy mây và yên tĩnh. Đây là dịp tốt để  bộ đội bảo vệ kho hang bản Cọ ra khỏi hang hít thở khí trời. Theo quy luật, đây là thời gian địch ít chú ý nhất, nên gần như mọi người đều ra khỏi hang tập thể dục. Nơi họ đứng là một bãi trống trải do bom địch cày đi xới lại. Họ không biết rằng, ngoài OV-10, còn những chiếc máy bay trinh sát phản lực, những chiếc máy bay không người lái. Một chiếc máy bay phản lực rẹt qua. Mọi người chạy vào hang. Nhưng đã muộn. Bom bi bắt đầu rơi xuống, và một quả tên lửa được điều khiển bằng laze, chui thẳng vào hang. Không chỉ những người lính bị đốn ngã, mà trạm bơm B4 đặt trong hang bị phá hủy hoàn toàn. Trận tập kích đã giết chết năm chiến sĩ, và làm bị thương một số người khác.

Trạm bơm B4 đặt trong hang bản Cọ có có vai trò cực kỳ quan trọng. Trạm bơm B5, nơi Quy hy sinh cách trạm bơm B3 tới gần bảy mươi cây số, nếu trạm bơm B3 không với tới B5 được, có nghĩa là dòng xăng đường ống vào đường 9 đã bị đứt. Trạm bơm B4 bị phá hủy giữa cao điểm của mùa khô. Tìm được vị trí đặt máy bơm mới, là hết sức khó khăn, nhưng điều khó hơn bội phần là bao lâu nữa mới chuyển được máy bơm thay thế vào, nhất là trong điều kiện trọng điểm Pha Bang  bị địch ngăn chặn quyết liệt.

Trung đoàn phó Đăng Tùng đích thân xuống Tiểu ban Ban Kỹ thuật:

- Phải tìm một vị trí mới đặt trạm bơm B4. Tiểu ban cử một người đi ngay sáng nay.

Quang nói:

- Thủ trưởng để tôi đi. Khu vực quanh bản Cọ tôi thuộc như lòng bàn tay.

Ngọc ngăn lại:

- Không được đâu thủ trưởng ạ. Khu vực ấy ác liệt lắm. Quang là con trai duy nhất trong nhà. Nó đi rủi có chuyện gì thì ân hận lắm. Thủ trưởng để tôi đi. Nhà tôi có tới bảy anh chị em, có sao thì cũng chẳng sao.

Thủy, Danh đều sẵn sàng đi. Tùng đã nghe nói về những chàng kỹ sư trẻ của Tiểu ban Kỹ thuật Trung đoàn. Vậy mà hôm nay, làm viêc với họ, ông vẫn cảm thấy xúc động vì sự dũng cảm, quên mình và thương yêu lẫn nhau của họ. Thôi, việc này để các cậu ấy bàn với nhau. Quang nói:

- Trạm bơm này cực kỳ quan trọng. Đã đi là phải chọn được vị trí một cách chắc chắn. An toàn hay không là ở chỗ mình nhanh chóng xác định được vị trí. Khu vực này không nên đi đi lại lại nhiều. Mình là người nắm chắc khu vực này nhất, vì mình chỉ đạo thi công lắp đặt trạm bơm và cùng anh Vĩnh chỉ đạo thi công bể hàn. Cứ như trận B52 ở suối Ra Vơ, thì có vẻ như bom nó tránh mình. Để mình đi. Chỉ một buổi là xong. Người khác đi, loay hoay lâu e không ổn.

Đăng Tùng nói với Ngọc:

- Quang nói vậy, có lý đấy. Cứ để nó đi - Ông hướng về phía Quang - Tôi đồng ý cử cậu đi. Đi phải hoàn thành nhiệm vụ, nhưng không được thương vong, được không?

Quang cười:

- Tôi hứa với thủ trưởng, nhất định hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng nếu "không được thương vong" cũng là một vế của mệnh lệnh, thì xin thủ trưởng dặn thằng Nich xơn.

Quang muốn pha trò một chút, vì trong cơ quan Trung đoàn, ai cũng biết Đăng Tùng là người rất hay khái quát theo kiểu chặt chẽ, nhưng đôi khi lại rất khó thực hiện, đại loại như: Tiếp khách sao cho thật trọng thị, nhưng phải đúng chế độ; Phải làm sao cải thiện bữa ăn cho bộ đội, nhưng không được mang mìn đi đánh cá...

- Phải dặn thế cho cẩn thận, đó cũng là trách nhiệm của tôi, vì cậu là con một.

Chỉ sau một ngày, Quang đã an toàn trở về báo cáo: Về lý thì chỗ đặt máy bơm đã bị lộ, có thể địch tiếp tục xăm vào đó. Nhưng tôi đã cùng cán bộ Tiểu đoàn và Đại đội đi khảo sát xung quanh. Không có chỗ nào tốt hơn vị trí đã đặt. Ta chỉ cần làm thêm bức tường chắn ngay lối vào hang là được. Phương án của Quang được thông qua. Chiếc máy bơm cháy nhanh chóng được kéo ra. Hang được dọn sạch, ụ đất bảo vệ được thiết kế rất khôn ngoan, chỉ chờ máy mới vào là sẽ được thi công ngay.

Việc trạm bơm B4 bị phá hủy lập tức được báo cáo lên Bộ Tư lệnh 559 và Tổng cục Hậu cần. Rất nhanh chóng, Trung đoàn nhận được điện báo hai chiếc máy bơm đang được chuyển vào. Một chiếc để thay thế, còn một chiếc để dự phòng. Cùng lúc đó, tin báo đã sắp kiệt xăng trong kho Q6 và Q7 làm cho Lê Trọng cực kỳ lo lắng. Ông nhẩm tính từng ngày xe chở máy bơm đi trên đường. Nhưng rồi ông đã thất vọng khi  từ ngoài báo vào: lũ đã cắt đứt nhiều đoạn đường ở Khu Bốn, phải hàng tuần là nhanh nhất mới có thể thông đường. Tình hình bỗng trở nên nghiêm trọng. Trung đoàn trưởng quyết định triệu tập một cuộc họp khẩn cấp.

Khi cán bộ các bộ phận bước vào hầm chỉ huy vận hành của Trung đoàn, đã thấy Lê Trọng ngồi đó. Việc Trung đoàn trưởng có mặt từ rất sớm cho thấy cuộc họp này thật là quan trọng. Lê Trọng đứng trước tấm bản đồ tuyến ống của Trung đoàn, ông chỉ vào vị trí bản Cọ, mở đầu cuộc họp:

- Như các đồng chí biết, trạm bơm B4 đã bị tên lửa địch phá hủy. Theo đó, xăng không thể bơm vào Q6, Q7 để cấp cho các binh trạm. Đang là mùa vận chuyển cao điểm, không có xăng cho xe vận tải, cho các binh khí kỹ thuật hành quân, thì hậu quả không thể lường hết được. Tổng cục Hậu cần đã chuyển máy bơm thay thế vào cho chúng ta, nhưng mưa lũ đã làm đứt nhiều đoạn đường ở Khu Bốn. Nhanh nhất phải mười ngày nữa mới tới bản Cọ. Đó là chưa kể rất nhiều bất trắc do thời tiết và do sự đánh phá ác liệt của địch. Ngày hôm qua, Q6 và Q7 báo xăng chỉ cấp phát được hai ngày nữa là hết. Trước tình hình đó, tôi muốn các đồng chí hiến kế xem nên giải quyết thế nào.

Trưởng Tiểu ban Kế hoạch chắc đã đau đầu về việc này từ mấy hôm, đứng dậy phát biểu trước. Phát biểu của viên sĩ quan này thể hiện đã được suy nghĩ rất kỹ và có hệ thống. Anh phân tích tình hình địch, các trọng điểm, các tuyến đường chủ yếu trên tuyến chi viện chiến lược, rồi cuối cùng đưa ra một loạt biện pháp tổng hợp: Đề nghị các đơn vị đảm bảo giao thông ở Khu Bốn ưu tiên cho hai chiếc máy bơm này đi trước tại các bến vượt, các nút giao thông; Đối với Bộ Tư lệnh 559 thì phải báo cáo đề nghị Tư lệnh tăng cường xe stec để chuyển xăng từ bản Cọ đến các binh trạm, đồng thời thông báo yêu cầu các đơn vị chỉ dùng xăng cho các việc quan trọng. Sau ý kiến đó, có một số ý kiến tiêu cực hơn: Báo cáo rõ để Tư lện Đồng Sĩ Nguyên biết, và cho phép chờ máy bơm vào thay thế. Lê Trọng lắng nghe, phân tích, phản biện rất sát sao các phương án. Chẳng hạn như nếu đề nghị tăng cường xe stec thì bao giờ mới có xe, và các xe này liệu có trót lọt qua được sự săn mồi độc ác của bọn máy bay tuần đêm, rồi làm sao để vượt qua các trọng điểm như Thà Khống. Còn ý kiến đề nghị Tư lệnh cho ngồi chờ máy bơm vào để thay thế thì không thể coi là một đề xuất, vì nó thể hiện sự bất lực của Trung đoàn.

Trưởng Tiểu ban Kỹ thuật Vũ Ngọc ngồi dán mắt nhìn vào bản vẽ mặt cắt dọc tuyến treo trên tường. Trong đầu anh luẩn quẩn câu hỏi: Có bơm thẳng từ B3, bỏ qua B4, đến B5 được không? Nếu bơm được thì đây là giải pháp tuyệt vời nhất. Thật may mắn là tháng trước, trong tờ tạp chí của Cục có đăng bài của tác giả Raskazob về vấn đề bơm vượt trạm trên tuyến đường ống dã chiến. Trong bài ấy, cơ sở của cách giải quyết là cho cửa ra của máy bơm vượt trạm luôn chịu áp suất giới hạn an toàn cho vận hành: ba mươi lăm cân. Nhưng ở đây, vướng cao điểm 911, nên khi B3 bơm hai mươi lăm cân, ống ở suối Ra Vơ đã đã chịu đựng áp suất gần tới hạn đó rồi. Đường từ B3 đến B5 gần bảy mươi cây số. Xa quá. Bây giờ mình liều nói bơm vượt trạm được, mà không thành công thì tác hại thật khó lường. Còn nếu không nói đến khả năng này thì có thể bỏ lỡ một cơ hội cho Trung đoàn. Lê Trọng hiểu trong việc này, ý kiến đề xuất của Tiểu Ban Kỹ thuật có nhiều hy vọng nhất. Ông chỉ định Ngọc phát biểu. Trước khi đứng lên, trong đầu Ngọc vụt qua câu dặn dò của bác Bảo: Địa hình Trường Sơn phức tạp quá, ta phải luôn sẵn sàng nghĩ tới những điều sách vở chưa nói tới. Ngọc mạnh dạn bước lên trước bản vẽ mặt cắt dọc tuyến đã phóng to:

- Trong chiến đấu, trên tuyến đường ống dã chiến bị mất một trạm bơm là sự cố hoàn toàn có thể xẩy ra. Tài liệu của Liên Xô đã nói về vấn đề này. Bởi vậy, tôi đề nghị Trung đoàn cho nghiên cứu phương án bơm vượt trạm, nghĩa là từ trạm bơm B3 ở phía bắc đèo 700, bơm vượt qua bảy mươi cây số, đến tận trạm bơm B5 để B5 tiếp sức bơm vào Q6. Nếu vượt trạm được thì đây là biện pháp tuyệt vời, vì thậm chí chúng ta không phải quan tâm đến việc bao giờ máy bơm thay thế vào được B4.

- Hay quá - Lê Trọng reo lên - Thế là có lối ra rồi.

- Tuy nhiên, báo cáo thủ trưởng và các đồng chí, địa hình Trường Sơn, mà cụ thể của chúng ta - Anh chỉ lên bản vẽ trắc dọc tuyến - Ở đây vướng đỉnh 911, lại có vực là suối Ra Vơ khiến cho ta không thể áp dụng dập khuôn cách của Liên Xô được. Do đó đề nghị thủ trưởng cho một ngày để Tiểu ban kỹ thuật tính toán lại rôì báo cáo Trung đoàn. Nếu phương án này thực hiện được, có nghĩa là chúng ta buộc phải vận hành liên tuyến. Đề nghị các cơ quan có kế hoạch đảm bảo cho đợt vận hành này.

- Tôi đồng ý với ý kiến đồng chí Ngọc. Ban Kỹ thuật tập trung nghiên cứu, xong lúc nào, báo cáo tôi ngay lúc ấy. Nếu tôi đang ngủ cũng dựng dậy. Gấp lắm rồi. Cơ quan Tham mưu tính toán lại phương án ngụy trang, giữ bí mật và  bố trí lực lượng để tiện điều động khi có sự cố. Hậu cần có phương án tốt nhất bảo đảm sức khỏe cho bộ đội khi vận hành. Phương án cứu chữa thương binh. Đề nghị anh Khuynh chỉ đạo cơ quan Chính trị có kế hoạch thật tốt về công tác Đảng, công tác Chính trị cho đợt vận hành này. Nếu Tiểu Ban Kỹ thuật tính toán thành công thì phải triển khai vận hành ngay, và coi đây là một trận đánh quyết chiến của Trung đoàn, vì nó thể hiện ý chí của chúng ta không bao giờ chịu thua giặc Mỹ.

Cuộc họp giải tán. Chính ủy Khuynh vỗ vai Ngọc: "Cố lên nhé. Cả Trung đoàn đang trông vào cậu đấy".

Từ hầm chỉ huy vận hành bước ra, Ngọc vừa mừng, vừa lo. Mừng vì đã đề xuất được một phương án có triển vọng. Lo vì lỡ ra tính toán không được thì làm cả Trung đoàn bị động. Anh lôi bài báo đăng trên tạp chí ra, bàn với Quang:

- Thực ra, lý luận của bài toán này không có gì khó hiểu. Bây giờ việc của ta là áp nó vào điều kiện địa hình cụ thể tuyến của Trung đoàn như thế nào. Trong mọi tình huống thì xét về áp suất, cửa VR ở suối Ra Vơ luôn là điểm xung yếu nhất. Ta tạm gọi nó là Điểm Xung, còn đỉnh 850 ở sườn 911 là điểm cao nhất mà xăng phải vượt qua. Ta gọi nó là Điểm Vượt. Bài toán vượt trạm bây giờ quan trọng nhất là mối quan hệ giữa máy bơm B3, Điểm Xung và Điểm Vượt - Ngọc ướm tam giác thủy lực lên trắc dọc tuyến - Cậu thấy không, nếu kéo dài đường đo áp này ra thì ở B4 còn tới mười lăm cân áp suất nữa. Kiếm đâu ra khoảng năm cân nữa là xăng tới được B5?

Hai chàng kỹ sư trẻ reo lên: Nếu vậy, chắc thành công rồi. Đêm ấy, họ loay hoay tính toán. Họ xoay đi, xoay lại các cách tính, phản biện lẫn nhau. Khi phương án vượt trạm chắc chắn thành công, đồng hồ đã chỉ hai giờ sáng. Không kìm được niềm vui, Ngọc nói:

- Cụ Trọng bảo xong bất kỳ lúc nào, báo ngay cho cụ biết, thậm chí đang ngủ cũng dựng cụ dậy. Mình nên thế nào?

- Dựng cụ dậy, vì chắc cụ mừng lắm.

Ngọc quay điện thoại. Chỉ một hồi chuông đã nghe tiếng trả lời của Trung đoàn trưởng.

- Tôi, Lê Trọng nghe đây.

- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi đã tính toán xong phương án vượt trạm. Báo cáo để thủ trưởng vui, và đề nghị sáng sớm mai cho chúng tôi trình bày.

- Liệu có vượt trạm được không?

- Dạ được.

Vẫn cái giọng Huế nhẹ nhàng:

- Vậy chờ đấy, mình sang ngay, nghe!

Vài phút sau đã thấy ánh đèn pin loang loáng. Trung đoàn trưởng lách qua cửa hầm. Ngọc trình bày vắn tắt kết quả bài toán. Lê Trọng ôm lấy Ngọc cảm động:

- Cảm ơn các cậu. Chúng mình lại thắng chúng nó keo này rồi. Bây giờ đã gần ba giờ sáng. Từ giờ đến trưa, các cậu ngủ đi cho lại sức. Sáng mai, mình khua các cơ quan khác. Đầu giờ chiều sẽ họp triển khai vận hành.

Quá trưa, cuộc họp bắt đầu. Ngọc trình bày vắn tắt phương án bơm vượt trạm. Đây là cuộc họp đầu tiên, các khái niệm Điểm Xung! Điểm vượt trên đường ống Trường Sơn được đề xuất và nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Rất nhanh chóng, phương án vượt trạm được thông qua. Cùng với đó là kế hoạch triển khai nhiệm vụ của các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần. Cuộc họp kết thúc khá nhanh chóng. Lê Trọng phát lệnh cho hai Tiểu đoàn 66 và 96 chuẩn bị triển khai lực lượng vận hành.

Vận hành liên tuyến giữa các Tiểu đoàn là một phần trong chiến thuật vận hành. Tuy nhiên, đợt vận hành này mang một đặc điểm hoàn toàn khác. Nó hết sức quan trọng, vì nếu không thành công, toàn bộ việc vận chuyển trên tuyến chi viện chiến lược từ đường số 9 trở vào có nguy cơ bị tê liệt một thời gian. Việc vận hành thành công cũng sẽ chứng minh cho sức mạnh, và ý chí không khuất phục của Trung đoàn trước sự đánh phá hủy diệt của không lực Mỹ. Trong chiến thuật vận hành liên tuyến, nếu một đoạn tuyến bị đánh đứt, việc vận hành có thể được tiếp tục trên các cung mà tuyến đang an toàn. Lần này, đã vận hành, là phải đảm bảo thông suốt từ kho đầu Q200 đến kho cuối Q6 và Q7, tổng chiều dài hơn một trăm cây số. Trong điều kiện địch đánh phá quyết liệt, giữ cho toàn tuyến an toàn, không bị đánh phá, là một việc cực kỳ khó khăn, và có cả yếu tố may mắn.

Lê Trọng ngồi vào vị trí chỉ huy vận hành. Đã là một cán bộ chỉ huy đường ống có kinh nghiệm, mà sao ông vẫn cảm thấy lo lắng, hồi hộp chẳng kém gì so với lần đầu vận hành ở X42 và đợt vận hành đầu tiên vượt đèo Mụ Giạ, đưa xăng vào kho Na Tăng. Ngoài sự chịu đựng bom đạn, lần này, bộ đội của ông phải vượt qua những khó khăn về kỹ thuật trong cuộc đấu trí với địch. Ông kiểm tra lại tất cả mọi kế hoạch chuẩn bị của các đơn vị. Sở chỉ huy có đầy đủ các cơ quan. Ngọc và Quang ngồi bên ông. Họ sẽ giúp ông đưa ra các kiến nghị khi có trục trặc kỹ thuật trên tuyến.

Lệnh vận hành phát ra lúc ba giờ chiều. Như thường lệ, sau khi máy bơm đầu nguồn khởi động, đường dây thông tin vận hành trở về yên tĩnh. Lần này, Sở chỉ huy ưu tiên nghe báo cáo áp suất bơm, vòng quay động cơ của máy bơm B3, áp suất ở cửa van VR, và động thái ở trạm bơm B5. Do đã bỏ chế độ bơm nước lót ống, nên chỉ sau gần một giờ, Cửa van ở lối vào hang bản Cọ đã thấy tín hiệu xăng đi qua. Sự đúng đắn của việc chọn phương án bơm vượt trạm đang bắt đầu được chứng minh.

Giữa lúc ấy, từ Cửa van ở hang Gấu Đen báo về:

- Địch đánh bom bi tọa độ, áp suất tụt, đề nghị ngừng bơm.

Lê Trọng sốt ruột hỏi:

- Có cháy không?

- Báo cáo. Không thấy cháy. Chúng tôi đã chuẩn bị que tre để nút các lỗ thủng bom bi. Chúng tôi sẽ báo cáo tiếp.

Nét lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt Lê Trọng. Ông chắp tay sau lưng, đi đi lại lại. Thời gian dường như ngưng lại. Cả Sở chỉ huy vận hành chờ đợi căng thẳng. Chợt tiếng trả lời của Quang phá tan yên tĩnh:

- Tôi, Quang, kỹ sư trực ở Sở chỉ huy vận hành đây.

Không thể chờ được, Lê Trọng nhấc ngay máy chỉ huy:

- Tôi, Lê Trọng đây. Tình hình sao rồi?

- Báo cáo thủ trưởng, có bốn chỗ ống bị thủng do bom bi. Chúng tôi đã khắc phục xong.

- Tốt. Cho vận hành tiếp.

Trên đường dây, lại trở lại không khí trật tự với những tiếng báo cáo các tham số áp suất và vòng quay trạm bơm. Chỉ một lát, đã nghe tiếng reo:

- B5 đã nhận đủ áp suất, bắt đầu bơm.

Ngọc nhắc Quang yêu cầu trạm bơm B3,  B5 và Cửa van VR năm phút báo cáo áp suất một lần.

Rồi cuối cùng, phút giây chờ đợi đã đến: Xăng đã tới Q6. Cả Sở chỉ huy vận hành như vỡ bung bởi tiếng hoan hô. Trên đường dây, bỗng chốc cũng ồn ào không kém. Đại úy Phương, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 66 reo lên bằng giọng khàn đục vốn có của anh:

- Chúng ta đã thành công. Chúc mừng thủ trưởng. Cảm ơn các kỹ sư.

Lê Trọng ôm lấy Ngọc cảm động:

- Chúng ta thực sự chiến thắng rồi! Cảm ơn các cậu rất nhiều.

Chờ cho những tiếng chúc mừng lắng lại, Lê Trọng mới nói vào điện thoại:

- Các đơn vị chú ý. Xăng đã đến Q6. Đó là thắng lợi lớn của chúng ta trước sự ngăn chặn quyết liệt của địch. Thay mặt Đảng ủy và chỉ huy, tôi cảm ơn các kỹ sư, các cán bộ chiến sĩ toàn Trung đoàn. Để bơm đầy xăng Q6 và Q7, chúng ta còn phải vận hành hàng chục giờ nữa. Các đơn vị tuyệt đối không được chủ quan. Các đồng chí rõ chưa?

- Rõ! - Tiếng đáp râm ran suốt dọc đường dây.

Lê Trọng châm một điếu thuốc. Ông bỗng cảm thấy trong lòng thanh thản. Vậy là một lần nữa, ông và bộ đội của mình lại chiến thắng. Bây giờ thì chẳng còn lo máy bơm thay thế không kịp vào bản Cọ.

Giữa lúc Lê Trọng đang nhâm nhi niềm vui, Tham mưu trưởng chuyển máy điện thoại tác chiến cho ông:

- Báo cáo. Tư lệnh gọi anh.

- A lô. Tôi Lê Trọng xin nghe.

- Tôi 601 (*) đây. Tôi nghe Tham mưu trưởng của anh báo cáo đã tìm cách khắc phục được khó khăn do địch đánh cháy trạm bơm B4. Xin chúc mừng anh. Bộ Tư lệnh biểu dương Trung đoàn 952 đã làm thất bại mọi nỗ lực ngăn chặn của địch. Sắp tới, địch có thể đưa bộ binh ra cắt ngang tuyến chi viện chiến lược của ta ở khu vực đường 9. Tôi yêu cầu bơm xăng đầy Q6, Q7 trước khi bộ binh địch đổ quân xuống. Đồng thời Trung đoàn tổ chức lực lượng, sẵn sàng cùng các đơn vị chiến đấu với bộ binh địch.

Vậy là một cuộc chiến đấu mới lại sắp bắt đầu. Bộ đội của ông giỏi chiến đấu trong điều kiện bom đạn ác liệt dội từ trên không xuống. Bây giờ liệu họ có cùng một lúc hoàn thành được cả ba nhiệm vụ: Đối phó với máy bay địch, chiến đấu với bộ binh, và bơm xăng phục vụ chiến đấu?

 

(còn tiếp)

                                              Theo Hội nhà văn Việt Nam


  Các Tin khác
  + Tháng giêng non thương mùa nắng hạ (19/09/2024)
  + Những hàng thông lặng im (19/09/2024)
  + MẮT TRĂNG (19/09/2024)
  + LÒNG TỰ TÔN (01/08/2024)
  +  CHUYỆN O NẬY (31/07/2024)
  + THÁNG BẢY VỀ.. (25/07/2024)
  + MÙA HOA GẠO (25/07/2024)
  +  TRƯỚC KHI QUÁ MUỘN (25/07/2024)
  +  NHẶT MẸ VỀ NUÔI (25/07/2024)
  + HÀNG THẢI (31/05/2024)
  + NỖI ĐAU BỊ LỪA DỐI. (31/05/2024)
  + VÙNG KÍ ỨC TRẮNG (30/05/2024)
  + Dưới ánh sương mai (26/05/2024)
  + VẰNG VẶC CHỮ TÂM (Thơ BÙI NGỌC BÍCH) (19/02/2024)
  + ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY Thơ Trần Huy Liệu Lời bình Bùi Ngọc Bích (19/02/2024)
  + GIÓ MÙA (02/11/2023)
  + TẢN MẠN CUỐI THU (02/11/2023)
  + Truyện ngắn. MỘT KIẾP NGƯỜI. (02/11/2023)
  + DỊU DÀNG MÙA THU (04/09/2023)
  + Thơ Nguyễn Hữu Quý - ĐÃ TỚI MÙA ĐÔNG (11/11/2022)
Playlist

GIỚI THIỆU
QUẢNG CÁO
Thống kê
Guests online: 12
Total: 65223617

 
 
 
Người xứ nghệ Kiev
Designed by July