Trang chủ Liên hệ       Thứ bẩy, Ngày 23/11/2024
 
 
THÔNG TIN
Giới Thiệu Hội
Trang Thể Thao
Sức khỏe & Đời sống
Ẩm thực Nghệ Tĩnh
Việt Nam Đất Nước Con Người
Khoa học & Môi Trường
Chuyện lạ đó đây
Nhịp cầu Nhân ái
DANH SÁCH TẤM LÒNG VÀNG
Tin tức Nghệ Tĩnh
Truyền thống Nghệ Tĩnh
Tâm sự cuộc sống
Văn hóa - Xã hội
Văn Nghệ
  -  Văn Thơ Sưu Tầm
  -  Sáng Tác Cộng Đồng
  -  Văn thơ của bạn
Thư Viện
Góc Cười
Tin Trong nước -Tin Quốc Tế -Tin Ucraina
Tin Cộng Đồng
Người Việt Trên Thế Giới
BÀI DỰ THI VỀ XỨ NGHỆ
QUẢNG CÁO

 
Trang chủ > Văn Nghệ > Văn thơ của bạn >
  Nhà giáo Huy Phương: ĐIỀU ÁM ẢNH Nhà giáo Huy Phương: ĐIỀU ÁM ẢNH , Người xứ Nghệ Kiev
 

(Nhân đọc tập thơ “Canh ngọn đèn đợi sáng” NXB Văn Học 2013 của nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng)

“Canh ngọn đèn đợi sáng” là tập thơ thứ 10 của Nguyễn Huy Hoàng do NXB Văn Học ấn hành năm 2013. Thế là, từ năm 1995 đến 2013, trong vòng 18 năm, anh cho ra đời 10 tập thơ. Tập thơ đầu tiên của anh mà tôi được đọc là “Giữa thanh thiên bạch nhật” do NXB Văn Học cấp giấy phép, in năm 2009. Đọc một trong mười tập thơ, tôi chỉ mới chạm đến một phần rất nhỏ trong chuỗi sáng tác của anh. Nhưng cũng từ đó tôi biết thêm, ngoài một Nguyễn Huy Hoàng TS ngữ văn, nhà nghiên cứu văn học, giảng dạy văn học tại các trường Đại Học, viết giáo trình “Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX”, còn là một Nguyễn Huy Hoàng nhà thơ giàu tiềm năng, giàu cảm xúc. Anh sáng tác thơ, văn, nghiên cứu văn học, sáng tạo nghệ thuật không hề biết mệt mỏi.

Tình cờ, tôi gặp anh trên mảnh đất Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh nhân kỷ niệm 250 năm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du. Cùng dạy và học một trường, nên anh có biết đến tôi ngay từ hồi tôi còn công tác tại trường cấp III Trần Phú, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Sau hơn 40 năm gặp lại, anh vẫn nhận ra tôi và chúng tôi có cơ hội liên lạc với nhau. Tôi viết thư cho anh và anh viết thư cho tôi qua địa chỉ mail. Thư của anh viết “Thưa Thầy, hôm nay ra Hà Nội, em mở máy và nhận được thư của Thầy. Em rất vui vì Thầy vẫn mạnh khỏe và dành cho em những tình cảm chân thành. Em xa nhà 30 năm rồi Thầy ạ. Trong suốt những năm tháng đó cũng gánh chịu bao nhiêu khổ nạn và cũng phải gồng mình để sống. Trong suốt những năm tháng đó em cũng chưa hề sao nhãng chuyên môn, vẫn viết và giảng dạy. Em sẽ lần lượt gửi Thầy những quyển sách của em. Hy vọng sẽ được gặp Thầy. Kính chúc Thầy mạnh khỏe. Em Nguyễn Huy Hoàng”

Thế là sau tập thơ thứ nhất “Giữa thanh thiên bạch nhật”, anh gửi tiếp cho tôi tập thơ thứ hai “Canh ngọn đèn đợi sáng”. Với tập thơ thứ nhất, tôi say sưa đọc và viết bài cảm nhận “Điều không thực chỉ là giấc mơ thôi” đã giới thiệu trên trang Web “Người Xứ Nghệ Kiev” tại Ucraina. Với tập thơ thứ hai này, tôi còn lưỡng lự chưa biết xử lý ra sao. Nhưng càng đọc càng thấy ám ảnh. Tôi không thể không ghi lại điều ám ảnh ấy. Phải chăng đây cũng là cách trò chuyện gián tiếp với anh, biểu lộ sự đồng cảm chia sẻ của một bạn đọc như tôi với chủ thể sáng tạo của tập thơ .

Đại thi hào Nguyễn Du có hai câu thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, lạc quan:

“Trời còn để có hôm nay/Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”. Là người đã từng chuyển ngữ truyện Kiều sang tiếng Nga chắc anh không thể không chịu ảnh hưởng ít nhiều. “Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời” là câu thơ đẹp có hình ảnh tươi tắn sáng sủa, nó thể hiện niềm tin yêu đối với con người và cuộc sống dù bất kể trong hoàn cảnh nào. Sống, lẽ sống của con người là không được phép buông xuôi, tuyệt vọng. Nguyễn Huy Hoàng hiểu rõ hơn ai hết điều đó. Dù phải gánh chịu bao nhiêu khổ nạn và dù phải gồng mình lên để sống cũng không được buông lơi vẫn phải thức trắng đêm để đợi ánh bình minh ở phía chân trời. Tôi cho rằng tiêu đề tập thơ “Canh ngọn đèn đợi sáng” mang ý nghĩa triết học như vậy. Nó cũng bật mí cho chúng ta về một nhân vật trữ tình, về chủ thể sáng tạo của tập thơ là một con người từng trải, giàu suy tư, trăn trở và có nỗi niềm trắc ẩn riêng tư không bao giờ có chút thanh thản “Đầy ắp những lo toan” (Thiếu).

Hãy lắng nghe nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng tâm sự: “Tôi đã bỏ mọi thứ dành cho mình ở phía trước để ở lại nước Nga với một niềm hy vọng gặp lại đứa con gái đầu lòng thất lạc của mình. Tôi đã gắng hết sức, đã đi khắp bốn phương, đã ngửa mặt cầu xin khắp chốn, đã chấp nhận một cuộc sống chật vật, đã chịu biết bao điều dắng cay mà bút giấy không thể nào tả xiết. Khi mọi thứ đã không ở trong tay mình, tôi chỉ biết phó mặc cho mệnh số và treo mảnh lòng xót thương của mình vào chiếc đinh hy vọng. Và những đêm dài canh đèn đợi sáng, tôi thấp thỏm đợi một dòng tin, một lời nhắn gửi tốt lành mà tôi đã mỏi mòn chờ suốt hơn hai chục năm đằng đẵng.”

Với nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng thơ với đời là một. Nỗi đau của đời cũng chính là nỗi đau trong thơ. Nỗi đau ấy đã hằn lên người anh đầy những vết sẹo mà vết nhức nhối hơn cả chính là “Vết ân hận suốt đời /Những đêm dài rỉ máu”. Đó là vết sẹo cũng là vết thương lòng hơn hai chục năm đằng đẵng chưa lúc nào cảm thấy nguôi ngoai:

Một năm là bao ngày

Hai chục năm đêm trắng

Nước mắt rơi bao lần

Giữa canh trường quạnh vắng

 

Con ơi đêm dài lắm

Trái đất rộng vô cùng

Chỉ có đêm mới tỏ

Lòng ba dành cho con. (Một năm là bao ngày)

Ở xứ người lạnh lắm. Mùa đông tuyết phủ đầy mặt đất, kéo dài sáu tháng liền. Khi tuổi tác đã cao, lòng đã mỏi, bắt đầu cảm thấy lẻ mọn, cô đơn. Ngồi một mình trong nhà trùm chăn kín, nhìn qua cửa sổ: “Mù mịt cánh đồng hoang/Gió hú gào tuyệt vọng”, “Từng khoảng tối rợn người/Canh ngọn đèn đợi sáng” (Canh ngọn đèn đợi sáng)

Nhưng niềm tin còn trong anh… Nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng trong cơn đau tột cùng đã tìm cho mình nguồn an ủi từ thế giới tâm linh và chưa bao giờ nguội tắt hy vọng. Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ này: “Một mình một bóng đêm đêm”:

Bạn ba giờ đã ông bà

Bạn con giờ đã cửa nhà chồng con

Vắng con hai chục năm tròn

Tóc vương bên gối như còn hôm qua

 

Ba không tị với người ta

Nhà mình phúc mỏng mới ra thế này

Ai mơ viên mãn đủ đầy

Ba cam phận bạc, trông ngày gặp con

Mẹ thì gầy guộc, héo hon

Cầu xin, vái mỏi, vái mòn tứ phương.

 

Gió mây sương nắng khôn lường

Xót con thân gái dặm trường bơ vơ

Vận sao vận đến không ngờ

Hạn sao hạn mãi bây giờ chưa yên

Một mình, một bóng đêm đêm

Tay mơ tìm mái tóc mềm phương con.

Thể thơ, lời thơ giản dị, mộc mạc, man mác, cổ kính như truyện Kiều của cụ Nguyễn Du như ca dao của người làm ruộng. Không chút màu mè, nhưng có sức hấp dẫn riêng của nó. Điều đáng nói ở đây là nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng dám nhìn thẳng vào nỗi đau, chấp nhận nó chứ không hề né tránh “Ba không tị với người ta/Nhà mình phúc mỏng mới ra thế này” Đúng là “Bình tâm trước cả bốn bề sóng xô!” Một cây bút thiếu bản lĩnh rất dễ buông xuôi, còn nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng thì vẫn nuôi hy vọng tạo nguồn cảm hứng lãng mạn cho những vần thơ cất cánh bay lên:

Ai mơ viên mãn đủ đầy

Ba cam phận bạc, trông ngày gặp con.

Nó giống như tiêu đề tập thơ “Canh ngọn đèn đợi sáng”. Lòng thương con đã làm nảy sinh ở người cha đức tính nhẫn nại, kiên trì, chịu đựng. Người đọc không chỉ xót thương mà còn cảm phục một nhân cách sống như thế khi đọc hai câu thơ đã trở thành ám ảnh:

Một mình, một bóng đêm đêm

Tay mơ tìm mái tóc mềm phương con.

Ám ảnh, cái điều lởn vởn trong trí óc, khiến cho người ta phải suy nghĩ, phải thổn thức là điều có thật trong thơ của Nguyễn Huy Hoàng. Đó không chỉ là “Vết ân hận suốt đời/ Những đêm dài rỉ máu” khi đứa con thất lạc chưa biết ở phương trời nào, mà còn là những nỗi niềm, những suy tư trăn trở trước cuộc đời. Từ nơi xa vạn dặm, anh luôn hướng tâm hồn mình trở về nguồn cội. Có khi anh thổn thức trước tiếng gọi của lòng mình hay tiếng của quê hương nhắn nhủ. Tôi bị ám ảnh bởi những câu thơ: “Xanh gì bằng cỏ trên nương/Thơm gì bằng bưởi đưa hương sau nhà”. Ngọt ngào quá, thân thương quá! Tôi cứ đọc đi đọc lại những vần thơ ấy như không hề biết chán. Chính nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng đã nói hộ cho tôi và cho bao nhiêu người khác:

Bỗng trong mưa bụi trắng trời

Tiếng ai nhắn gọi hay lời tháng năm?

Dặm về nẻo vắng xa xăm

Chiều đông thấm mỏi bước chân độc hành

Đâu rồi bếp rạ, mái tranh

Đâu rồi, lối ngõ uốn quanh xóm nghèo?

Sân đình bến nước trong veo

Cây đa đêm hội, trăng treo. Đâu rồi?

Tìm đâu ra giữa quê người

Cỏ xanh đầu bãi, chiều phơi nắng vàng

Rặng tre nghiêng xuống giếng làng

Bóng ai tóc xõa, trăng loang vai mềm

Chập chờn nhớ giữa trời quên

Lòng quê lãng đãng trên miền mộng mơ.

Hoặc:

Ở nơi ấy một thời tôi đã sống

Mảnh áo nâu, cơm độn sắn, dép mòn

Gió đông thổi lạnh buốt mùa sơ tán

Lối sang trường vương mảnh pháo đạn bom

Ở nơi ấy những Thầy, Cô đáng kính

Dìu dắt ta cất bước buổi đầu đời

Đêm xứ lạnh nằm mơ nghe tiếng kẻng

Lại giật mình nhớ lớp buổi xa xôi

Nơi xa cách cuộc mưu sinh cơm náo

Cũng đắng cay cũng nghiệt ngã vô cùng

Nhưng mỗi lúc tưởng chừng như gục xuống

Thấy Cô, Thầy bè bạn đỡ sau lưng…

Không biết có điều gì nơi âm thanh tiếng kẻng mà ám ảnh người đọc làm vậy, đọc lên nghe thổn thức, nôn nao lạ thường. Đó là một chi tiết, một hình ảnh thơ rất hiện đại. Đẹp biết bao hình ảnh “Thấy Cô, Thầy, bè bạn đỡ sau lưng”.

Nhà thơ còn ám ảnh cả những thứ chưa thuộc về mình chỉ thoáng qua đời mình thôi nhưng biết bao day dứt tiếc nuối: “Chưa kịp gần đã quá đỗi xa xôi/Tôi đánh mất điều mình chưa kịp có/Còn da diết xốn xang lòng một thuở/Khi sáng nay như sớm ấy đang về”. Một chút liên tưởng về thời gian mà quá khứ trong hoài niệm ùa vào cảm xúc. Vẻ đẹp tươi ròng của một vùng quê sơn cước như “kho báu vật” trở thành ám ảnh, tạo thành những câu thơ có sức lay động lòng người:

Tôi hiểu rằng, tôi đã bỏ ra đi

Với tuổi trẻ không một lời tiễn biệt

Nếu gặp lại con bê, chùm lục lạc

Con suối trong, luống cải chớm hoa vàng

Đường ven đồi lau xao xác trên nương

Chắc chẳng thể như tôi từng thổn thức

Kho báu vật tôi vô tình đánh mất

Những ngày xanh không trở lại bao giờ. (Những ngày xanh không trở lại bao giờ)

Thì ra, đó là vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng cũng là vẻ đẹp của tuổi thanh xuân của “những ngày xanh không trở lại bao giờ”. Lời thơ ở đây không gấp gáp, vội vàng như thơ Xuân Diệu nhưng vẫn có tác dụng như một tiếng chuông thức tỉnh, đừng để tuổi trẻ qua đi một cách uổng phí.

Hài hước – trữ tình là một giọng điệu rất riêng cứ lặp đi lặp lại trong thơ của Nguyễn Huy Hoàng từ tập thơ này sang tập thơ khác. Những bài thơ có giọng điệu như thế thường đem đến cho người đọc những cảm giác thú vị. “Giá mà nghèo được như xưa” (viết cho một người đang giàu) là một trong những bài thơ như thế. Ở đây, nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng có cái nhìn lạc quan của người lao động “Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”. Ở đây, cái nghèo được coi như một điều mơ ước, hãy chớp lấy cơ hội này để giải bày một tình yêu thuần khiết vượt lên mọi rào cản về vật chất tầm thường:

Giá mà nghèo được như xưa

Giá mà trở lại thuở chưa biết giàu

Thời vai sờn, áo dãi dầu

Lo toan trĩu gánh hai đầu sớm hôm

Rau dưa che khuất mâm cơm

Nụ cười tỏa rạng, vợ con quây quần

Rào thưa nên láng giềng gần

Rượu quê, đĩa lạc, thơ ngâm dưới đèn

Cái thời chẳng thể nào quên

Tỉnh ra như giấc mộng tiên xa vời.

“Rào thưa nên láng giềng gần” là một phát hiện của óc quan sát tinh tế, hình ảnh ấy vừa rất cụ thể, lại vừa khái quát cao để ngợi ca nét văn hóa làng xã của một thời vang bóng! Trong khi những người nghèo có cuộc sống êm ấm, hạnh phúc thì trái lại những kẻ giàu chỉ biết “dở khóc dở cười”. Thật là hài hước phải không?

Giọng điệu hài hước còn được sử dụng để ghi lại những cảm xúc “bi uất” trước thế sự trái ngang. “Sống chết mặc bay” thì cụ Phạm Duy Tốn đã viết rồi. Nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng còn viết tiếp “Quan xưa” để kính dâng hương hồn cụ. Phải chăng hai tác giả của hai thời đại đã gặp nhau ở một góc nhìn nào đấy về bọn quan lại:

Mặc năm thất bát sắn khoai

Dân đen rã họng, giêng hai ăn mày

Nông phu bỏ ruộng không cày

Lìa quê tan tác, chân mây cuối trời

Mặc nơi biên ải xa xôi

Ngoại bang dòm ngó chờ thời tràn sang

 

Còn đây ngay giữa phủ quan

Ăn chơi, hát xướng, ngày tàn, canh khuya

Mỹ nhân muôn nẻo cống về

Bạt ngàn vật lạ, ê chề của ngon

Trên là vàng, dưới là son

Dân có còn, nước có còn mặc bay!

Khi đọc bài thơ “Thầy giáo làng”, tôi bị ám ảnh bởi hai câu thơ: “Những đứa trẻ giống con xưa, ngồi lưng trâu lại đọc/”Nước ta giàu tài nguyên, có biển bac rừng vàng”. Thế mà:

Chỉ có cái nghèo là không đổi

Mái tranh vách đất, trát rạ rơm

Bao cuộc chuyển vần đâu vẫn đấy

Già vẫn đói cơm, trẻ áo sờn.

Một người từng trải, hay suy tư, trăn trở “đầy ắp những lo toan” thì không mấy khi thanh thản, mà lại hay giật mình:

Lạ kỳ đã mấy tháng nay

Nửa đêm trở chứng lại hay giật mình

… Năm tàn, tiếc những ngày xanh

Lá rơi ngồi tiếc thân cành trụi trơ

Mỏi tay vẫy bến xa mờ

Giật mình, vực thẳm xói bờ thời gian.

Thơ của nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng là vây. Đa thanh, đa nghĩa, đa giọng điệu. Nhưng xuyên suốt tập thơ này cũng như ở những tập thơ khác chính là giọng trữ tình, đằm thắm của một tâm hồn đa sầu, đa cảm, có thủy, có chung, luôn trăn trở, nghĩ suy, “đầy ắp lo toan” trước những biến động của cuộc sống của con người trong thế giới phẳng.

Thành phố Vinh, Ngày Noel 25/12/2015


  Các Tin khác
  + Tháng giêng non thương mùa nắng hạ (19/09/2024)
  + Những hàng thông lặng im (19/09/2024)
  + MẮT TRĂNG (19/09/2024)
  + LÒNG TỰ TÔN (01/08/2024)
  +  CHUYỆN O NẬY (31/07/2024)
  + THÁNG BẢY VỀ.. (25/07/2024)
  + MÙA HOA GẠO (25/07/2024)
  +  TRƯỚC KHI QUÁ MUỘN (25/07/2024)
  +  NHẶT MẸ VỀ NUÔI (25/07/2024)
  + HÀNG THẢI (31/05/2024)
  + NỖI ĐAU BỊ LỪA DỐI. (31/05/2024)
  + VÙNG KÍ ỨC TRẮNG (30/05/2024)
  + Dưới ánh sương mai (26/05/2024)
  + VẰNG VẶC CHỮ TÂM (Thơ BÙI NGỌC BÍCH) (19/02/2024)
  + ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY Thơ Trần Huy Liệu Lời bình Bùi Ngọc Bích (19/02/2024)
  + GIÓ MÙA (02/11/2023)
  + TẢN MẠN CUỐI THU (02/11/2023)
  + Truyện ngắn. MỘT KIẾP NGƯỜI. (02/11/2023)
  + DỊU DÀNG MÙA THU (04/09/2023)
  + Thơ Nguyễn Hữu Quý - ĐÃ TỚI MÙA ĐÔNG (11/11/2022)
Playlist

GIỚI THIỆU
QUẢNG CÁO
Thống kê
Guests online: 2
Total: 65160583

 
 
 
Người xứ nghệ Kiev
Designed by July