LỜI TÂM SỰ CỦA TRIỆU LAM CHÂU:
Có một tin vui mới, tôi muốn chia sẻ với tất cả bạn bè, nhất là bạn bè thuộc cộng đồng dân tộc Tày – Nùng. Vào ngày 21 tháng 9 năm 2014 vừa qua, tại Trường Đại học Quy Nhơn (Bình Định) nhà nghiên cứu văn học trẻ Nguyễn Văn Thông đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ văn chương, với nhan đề “Bản sắc văn hoá dân tộc Tày trong thơ Triệu Lam Châu” (Dày 100 trang A 4). Hội đồng khoa học của Trường đã đánh giá phần bảo vệ luận văn bằng hình thức cho điểm trong phiếu kín. Kết quả bình quân là 9,5 điểm.
Niềm vui và vinh dự lớn này, trước tiên thuộc về Nền văn hoá Tày – Nùng thiêng liêng của chúng ta, thuộc về cộng đồng dân tộc Tày – Nùng cả nước và thuộc về những người quan tâm và ưu ái đối với nền văn học dân tộc thiểu số nói chung và nền văn học Tày – Nùng nói riêng.
Tôi xin trích một số phần trong luận văn này đăng lên đây, để chia sẻ niềm vui với bạn bè.
Trong luận văn ấy có trích thư của nhà thơ Y Phương gửi Triệu Lam Châu, để góp phần nhận diện bản sắc thơ Triệu Lam Châu. Do đó tôi xin mạn phép nhà thơ Y Phương công bố bức thư ấy lên Sân trời của Hội ta, cho đông đảo bạn bè người Tày – Nùng cùng xem cho vui.
Nhà thơ Y Phương là bậc đàn anh của Triệu Lam Châu về mọi phương diện: Về tuổi đời, nhà thơ Y Phương lớn tuổi hơn tôi. Anh sinh năm 1948. Triệu Lam Châu sinh năm 1952.
Về công lao cống hiến đối với đất nước, nhà thơ Y Phương có công lớn. Anh đã vào sinh ra tử, chiến đấu chống giặc thù trong những năm kháng chiến chống Mỹ hồi xưa. Cũng thời gian ấy Triệu Lam Châu lại yên ổn học hành dài hạn trên đất nước Liên Xô anh em.
Về con đường văn nghiệp: Nhà thơ Y Phương nổi tiếng lẫy lừng trên văn đàn và được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1988. Còn Triệu Lam Châu mãi tới năm 1997 mới được vào Hội nhà văn Việt Nam.
Nhà thơ Y Phương đã ưu ái ban cho bậc đàn em Triệu Lam Châu những lời có cánh. Tôi không xứng đáng nhận những lời ấy. Song tôi rất biết ơn anh suốt bấy năm ròng. Bởi vì những lời ban tặng ấy của anh đã dẫn đường cho Triệu Lam Châu đi tới hôm nay
TRÍCH LUẬN VĂN THẠC SĨ CỦA NGUYỄN VĂN THÔNG:
1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Triệu Lam Châu
Nhà thơ Triệu Lam Châu sinh ngày 27 tháng 6 năm 1952, tại bản Nà Pẳng, xã Đức Long, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước và môi trường văn hoá Tày thuần khiết.
Năm 1970, Triệu Lam Châu được cử đi học tại Trường dự bị Đại học Bách khoa Lêningrat, tốt nghiệp Khoa dự bị Lêningrat, Triệu Lam Châu được phân vào học Trường Đại học Mỏ Lêningrat khoá 1971 – 1976.
Trong thời kỳ học đại học,Triệu Lam Châu được đi thực tập ở các vùng khai thác mỏ và rừng núi xa xôi của nước Nga như Capcadơ, Krưm, Kuxtanai, Rutnơi, Cuôcxơ… Từ đó ông được đắm mình vào cuộc sống dân dã của nước Nga cũng như cảnh đẹp mê hồn của nước Nga mỗi độ thu về với rừng lá phong vàng bạt ngàn vô cùng quyến rũ... Tất cả những điều ấy đã bồi bổ cho tâm hồn Triệu Lam Châu những nét tinh tế và bề dày về văn hoá Nga và ảnh hưởng đến sáng tác của ông sau này.
Tháng 7 năm 1976 tốt nghiệp Đại học mỏ Lêningrat, về nước – được Bộ Đại học phần về công tác tại Tổng cục Địa chất Việt Nam.
Tháng 11 năm 1976 Triệu Lam Châu được Tổng cục Địa chất phân bổ về công tác tại Đoàn địa chất 48 Cao Bằng.
Đầu năm 1980 tổng cục Địa chất điều động Triệu Lam Châu vào làm công tác giảng dạy tại Trường trung học chuyên nghiệp địa chất 2 Tuy Hoà, Phú Yên (Trực thuộc Tổng cục Địa chất).
Làm công tác giảng dạy ngành địa chất nên Triệu Lam Châu có điều kiện đi các nơi để hướng dẫn học sinh thực tập địa chất ở miền rừng Tây Nguyên và đồng bằng Nam Bộ. Từ đó với tâm hồn phóng khoáng của mình, Triệu Lam Châu càng có nhiều dịp thuận lợi đi sâu tìm hiểu cuộc sống đồng bào Tây Nguyên ở những vùng heo hút xa xôi nhất. Những điều ấy làm cơ sở vốn sống về Tây Nguyên - để sáng tác nên tập thơ mang tựa đề là “Trăng sáng trên non”. Tập thơ ra đời năm 1998, được nhận giải thưởng thơ năm 1998 của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Triệu Lam Châu hiện là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, hiện công tác tại Trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hoà, Phú Yên.
Nhà thơ Triệu Lam Châu đã ấn hành 15 cuốn sách văn học, bao gồm thơ sáng tác, thơ dịch, tiểu thuyết dịch và hai đĩa hát CD – đồng thời đã từng đoạt Giải nhất toàn quốc Cuộc thi dịch văn học nước ngoài ra tiếng Việt năm 1994 do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, giải nhất toàn quốc cuộc thi thơ về tình hữu nghị Việt – Nga năm 2000 do Trung ương Hội hữu nghị Việt – Nga tổ chức, Giải ba về âm nhạc năm 2007 của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam.
1.2.2.1. Thành tựu thơ
Với tâm hồn trong trẻo như suối nguồn, với cảm xúc chân thành mãnh liệt sôi trào có sự dẫn đường bởi ánh sáng của trí tuệ - thơ Triệu Lam Châu đã phản ánh những nét đặc sắc về con người, thiên nhiên và những vỉa tầng văn hoá của những vùng mà tác giả đã từng sống hết mình và chiêm nghiệm sâu xa – để rồi hình thành nên những tác phẩm điển hình với những đặc trưng riêng độc đáo của từng vùng, không lẫn vào đâu được.
Các tập thơ đã được ấn hành:
1- Trăng sáng trên non (Thơ)
Hội Văn học Nghệ thuật Phú Yên 1998.
2 - Ngọn lửa rừng (Thơ)
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc 1999.
3 - Nửa phần sự thật (Thơ dịch) của X. Mikhancốp (Nga)
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc 2000.
4 - Giọt Khèn (Thơ)
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc 2001.
5 - Đêm trắng (Thơ dịch) của nhiều tác giả (Liên Xô)
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc 2002.
6 - Thầm hát trên đồi (Thơ)
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc 2004.
7 -Thơ dân gian Tacta (Thơ dịch)
Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc 2007
8 - Nhật ký trong tù (Thơ dịch theo thể lục bát) của Hồ Chí Minh
Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc 2009
9- Một ý tưởng táo bạo (Thơ dịch) của X. Mikhancốp (Nga)
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc 2012.
Phong cách thơ Triệu Lam Châu đa dạng, phong phú và giàu sáng tạo độc đáo, thể hiện được cái mộc mạc chân tình mà lãng mạn ảo huyền của người Tày, cái tinh tế, lịch lãm, sâu sắc và bay bổng du dương của người Việt, cái hồn hậu, thông tuệ và trữ tình đến mức đắm say của người Nga.
1.2.2.2. Thành tựu âm nhạc
Năm 1968 thời kỳ học phổ thông Triệu Lam Châu bắt đầu sáng tác và đã sáng tác được khoảng mười bài hát, ca khúc đầu tiên là Bài ca Khuổi Dà. Thời kỳ sinh viên du học tại Nga – Xô Viết Triệu lam Châu cũng đã sáng tác thêm được năm bài hát, điển hình như: Cánh chim bay – Tạm biệt nhé Lêningrat – Đón xuân trên thành phố Lênin – Trượt tuyết – Tiếng hát trái tim.
Tính đến thời điểm này Triệu Lam Châu đã sáng tác là 192 ca khúc với 2 đĩa nhạc đã phát hành đó là:
- Đĩa CD nhạc “Cao Bằng yêu dấu” (Tuyển mười ca khúc, với giọng hát của các nghệ sĩ ưu tú: Trung Đức, Doãn Tần, Tiến Hỷ, Rơ Chăm Pheng và Vi Hoa) do Hồ Gươm Audio - Video Hà Nội thực hiện năm 2003.
- Đĩa CD nhạc "Gánh nước ban mai" ( Tuyển tám ca khúc, với giọng hát của các ca sĩ: Quốc Dũng, Thanh Huệ, Tất Đạt, Quốc Khương và Khánh Trang ), do Thanh Hải AUDIO thực hiện năm 2006.
Năm 2011, Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, Chi nhánh phía Nam đã nhận bảo vệ quyền tác giả Tập ca khúc Gánh nước ban mai, của Triệu Lam Châu, với một trăm ba mươi bài hát.
Tháng 8 năm 2013 Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, Chi nhánh phía Nam đã nhận bảo vệ quyền tác giả Tập ca khúc Em là con chim thiên nga, của Triệu Lam Châu, với sáu mươi hai bài hát.
Đặc điểm âm nhạc của Triệu Lam Châu:
Phần nhạc chủ yếu mang âm hưởng dân ca các dân tộc miền núi phía bắc. Cảm xúc dồi dào, nét nhạc vừa dân tộc vừa hiện đại. Lời bài hát giàu chất thơ phản ánh tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương đất nuớc bản làng của người miền núi hôm nay.
Nhạc Triệu Lam Châu đã được ghi âm hơn hai mươi bài, trong các đĩa hát: Cao Bằng yêu dấu – Gánh nước ban mai – Mùa trăng núi Nhạn.
Một số bài hát của Triệu Lam Châu đã đi sâu vào công chúng yêu nhạc cả nước, và được giới thiệu trong chương trình “Bài ca đi cùng năm tháng” của VTV như: Vầng trăng Nà Pẳng (NSƯT Vi Hoa trình bày), Ánh sao chiều trên núi Khau Mi-à (NSND Trung Đức trình bày), Nhớ núi (NSƯT Tiến Hỷ trình bày)…
1.2.2.3. Thành tựu dịch thuật
Không chỉ được biết đến với các tác phẩm thơ, Triệu Lam Châu còn là một dịch giả. Với 10 tập thơ, tiểu thuyết dịch từ tác phẩm của các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng ở nước ngoài, Triệu Lam Châu đã khẳng định vị trí của mình ở một lĩnh vực rất đặc thù, góp phần đưa văn hóa của các nước - đặc biệt là nước Nga Xô Viết - đến với độc giả Việt Nam. Năm 1987, tiểu thuyết Nàng dâu của nhà văn Bungari Ka-rax-la-vốp do Triệu Lam Châu dịch được Nhà xuất bản Phú Khánh giới thiệu đến độc giả với 25.000 bản in.
Người thổi lên ngọn lửa đam mê đó chính là nhà văn - dịch giả Đào Minh Hiệp, một kỹ sư mỏ - địa chất được đào tạo ở Liên Xô (cũ).
Sau tiểu thuyết Nàng dâu, Triệu Lam Châu còn dịch một loạt tác phẩm: truyện ngắn Hoa nở muộn mằn của nhà văn Nga Sê-khốp, tiểu thuyết Lửa tình đã cạn của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ I-ưn-đư, truyện vừa Người đàn bà tôi thương của nhà văn Nhật Bản Ta-ni-đa-ki, tiểu thuyết Mối tình của người góa phụ của nhà văn Anh Hartley, tiểu thuyết Đi tìm hạnh phúc của nhà văn Pháp Phur-nơ, tiểu thuyết Túp lều lá bên sông của nhà văn Tiệp Khắc Ga-lêk…
Năm 1994, Triệu Lam Châu dịch tập truyện Vương quốc chim họa mi của nhà văn Nga Pau-xtốp-xky và đoạt giải nhất cuộc thi dịch văn học nước ngoài ra tiếng Việt do Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học và Báo Văn nghệ phối hợp tổ chức. Ba năm sau, ông được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam (Năm 1997).
Từ năm 2000, Triệu Lam Châu chuyển sang dịch thơ. Các tập thơ: Nửa phần sự thật, Đêm trắng, Thơ dân gian Tác-ta lần lượt ra đời trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2007. Và độc giả Việt Nam có thêm cơ hội tiếp cận những bài thơ nổi tiếng của những tên tuổi lớn ở các nền văn học trên thế giới, đặc biệt là văn học Nga.
Dịch thuật văn học, nhất là dịch thơ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác-Đó là một biểu hiện rõ ràng, sáng láng và đẹp đẽ nhất của tư duy giao thoa văn hoá trong tâm hồn người chuyển ngữ.
Tính đến thời điểm này Triệu Lam Châu đã dịch và công bố bảy cuốn tiểu thuyết từ tiếng Nga của các nhà văn thuộc các nền văn học: Nga, Anh, Pháp, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangary và Tiệp Khắc (Hoa nở muộn mằn của Tsêkhốp, Nga – Mối tình của người goá phụ của Hartley, Anh – Đi tìm hạnh phúc của Furnơ, Pháp – Người đàn bà tôi thương của D. Tanidaki, Nhật Bản - Lửa tình đã cạn của Beky Yưnđư, Thổ Nhĩ Kỳ - Nàng dâu của Kaxlavốp, Bungary, Túp lều lá bên sông của Vitexláp Galek, Tiệp Khắc).
Hai tập bản thảo truyện ngắn dịch chưa in: Vương quốc chim hoạ mi của Pauxtốpxky (Nga) – Truyện ngắn Tsapek (Tiệp Khắc).
Về thơ dịch Triệu Lam Châu đã có năm cuốn như: Nửa phần sự thật của X. Mikhancốp – Đêm trắng, tuyển dịch thơ Nga – Xô Viết, - Thơ dân gian Tacta – Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh – Một ý tưởng táo bạo của X. Mikhancốp.
Hai bản thảo tập thơ dịch Nga – Việt - Tày chưa in là: Em bình dị như mọi người vậy đó của Xecgây Êxênhin và Cây tiêu huyền nghe mưa của Raxun Gamzatốp.
Một tập bản thảo thơ dịch Việt – Tày chưa in là: Tuyển tập thơ Tố Hữu
Sách thơ đã in, ngoài cuốn Nhật ký trong tù, các cuốn còn lại trên đây đều được dịch từ tiếng Nga – sang tiếng Việt – rồi sang tiếng Tày.
1.2.2.4. Quan niệm nghệ thuật
Triệu Lam Châu quan niệm thơ ca là tiếng lòng sâu thăm thẳm và bay bổng nhất của tình người, là năng lượng điện của tấm lòng được nén chặt đến mức không thể tưởng tượng nổi, kể cả những tưởng tượng khổng lồ và hùng vĩ nhất của con người về nó, là sự nổ bùng chốc lát một cách ngây ngất say sưa nhất của sự nén chặt không cùng ấy, là hơi thở hổn hển ngập ngừng, là sự ấp úng muốn thổ lộ giãi bày một điều thầm kín đã kết trái trọn vẹn trong lòng, mà lời cứ rời rạc, đứt nối mãi không thôi…
Thơ chính là nét ảo huyền của ánh chàm lung linh trên mái núi, được nạm bởi tiếng lượn sli mê hồn lúc sẽ sàng như hơi thở của làn heo may nhè nhẹ buổi chớm thu loáng sáng ánh phong vàng trong lòng suối gợn sóng mơ hồ, lúc ào lên như cơn lốc tình nổ bùng rừng rực…
Hay thơ là ánh nâu thâm trầm của chất phù sa tiềm tàng một vùng châu thổ, chan chứa tinh chất trữ lượng đời của lòng người đã từng lồng lộng theo cánh cò bay vượt đại dương, đến với bao tâm hồn bè bạn của thế gian này, với một nắm hương thấm đẫm trong tay – Và khi mở xoè tay ra, thì những vần lục bát như bình dị mà cao vời ấy, lập tức thôi miên ngay mọi hồn người không phân biệt màu da và ngôn ngữ trên khắp hoàn cầu.
Hay thơ là một ánh nao nao không hiểu vì sao chợt hiện giữa lòng ta, niềm nao nao ấy có một uy lực tuyệt đối, tuyệt đối đến mức khi mùa lá phong vàng vô cùng quyến rũ của mùa thu Nga (chan chứa ánh mắt người ta yêu) đã qua lâu rồi, mà nhờ uy lực siêu nhiên ấy, lúc nhìn hàng cây trụi lá khẳng khiu run rẩy não nùng trong tuyết trắng, ta vẫn thấy ánh phong vàng vọt lên đầy kiêu hãnh, thách thức với mọi sự hăm doạ vô lối của con người vô tâm và thiên nhiên khắc nghiệt mỗi mùa đông sang.
Ta tâm niệm thơ là tất cả những điều ấy và tất cả những điều tiềm ẩn, lung linh, huyền ảo chưa hề được biết đến, thơ là cảm xúc có luỹ thừa bậc vô cùng…Nếu theo ký hiệu toán học sẽ là: Cảm xúc là số X có số mũ là vô cùng ( X (vô cùng) ).
Nhận xét về sáng tác của Triệu Lam Châu, nhà văn, kỹ sư Nông Thế Giới, người Tày, định cư tại Cộng hoà Sec nhận xét như sau: “Đọc thơ và nghe nhạc Triệu Lam Châu ta thấy toát lên những rung động nghệ thuật nhẹ nhàng tinh túy, nguồn cảm hứng thường rất mộc mạc giản dị. Cảnh núi non bạt ngàn Capcadơ cho anh nhớ về Kéo Pỉt, rồi từ những ngọn núi quen thuộc nơi quê nhà, anh nhớ về một mối tình lãng mạn sâu xa. Rồi nhìn những vạt nương, ruộng lúa nơi Khau Mi-à quen thuộc anh tưởng tượng ra có một người con gái vẫn say mê đi tìm anh (Em đi tìm anh khắp Khau Mi-à). Tôi hiểu cô gái đó là quê anh, là những gì thân thương gắn bó với anh từ bé và chắc chị Dương Thúy Vân vợ anh cũng hiểu vậy nên đã để Triệu Lam Châu tha hồ mà tưởng tượng mà đắm say. Từ những quả sau sau rụng ở sân khi con gái nhặt được, đã cho anh một cảm hứng đủ để anh cho ra đời một bài hát về quê vợ yêu thương…(Một chiều thu Nà Rị, Về thăm quê ngoại.) ”(Nguồn http://www.caobangpro.com
).
Trong một bức thư gửi nhà thơ Triệu Lam Châu, nhà thơ Y Phương viết: “Hỡi dân tộc Tày – Hãy ngẩng cao đầu sau tiếng thơ của anh – Không hổ thẹn mà còn kiêu hãnh nữa” (Triệu Lam Châu tự thuật). Điều này cho thấy rằng nhà thơ Y Phương đánh giá rất cao thơ của Triệu Lam Châu viết về quê hương dân tộc Tày của mình.
1. Trong các tác phẩm thơ của mình Triệu Lam Châu đã thể hiện cụ thể, sinh động những nét bản săc văn hoá của dân tộc Tày. Từ hình ảnh thiên nhiên đến con người nơi núi rừng Việt Bắc. Đọc thơ của Triệu Lam Châu ta nhận thấy rất rõ cách cảm, cách nghĩ, cách thể hiện của người miền núi.
Hình ảnh thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc được hiện lên trong thơ Triệu Lam Châu là thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ mà thơ mộng. Thiên nhiên ấy được cảm nhận từ tình cảm gắn bó hoà nhập. Anh nhìn về quê hương, bản làng với tình cảm ngợi ca, tự hào.
Triệu Lam Châu viết về những con người Việt Bắc (người Tày) với một tình cảm thiết tha mà mang nhiều ý nghĩa lớn lao. Họ là những con người chất phác, tần tảo mà giàu đức hy sinh. Đó là hình ảnh những người vợ, người mẹ dân tộc Tày lo toan vất vả, tràn đầy tình yêu thương và giàu đức hy sinh. Họ là những con người không tên tuổi nhưng cuộc đời của họ mãi mãi đọng lại trong niềm cảm thương, sự kính trọng và lòng yêu thương vô bờ. Hay hình ảnh những chàng trai, cô gái Tày khoẻ mạnh, tràn đầy sức sống, hăng say trong lao động, kiên cường trong chiến đấu. Trong tình yêu họ cũng là người rất chân thành, thắm thiết, thuỷ chung. Họ bộc lộ tình yêu “đậm chất núi rừng”, rất hồn nhiên, nồng nàn, thuần khiết.
2. Một trong những điều làm nên giá trị độc đáo, đặc sắc riêng cho những tác phẩm thơ của Triệu Lam Châu đó là những phong tục, tập quán. Phong tục tập quán của những người dân tộc Tày Việt Bắc đã đi vào trong thơ Triệu Lam Châu một cách tự nhiên, chân thực, phong phú và sinh động với phong tục trong lễ tết, hội hè, trong đám cưới, ăn hỏi, trong lao động sản xuất, trong đời sông văn hoá, văn nghệ của người Tày.
3. Bản sắc văn hóa dân tộc Tày còn được thể hiện rất rõ trong nghệ thuật thơ của Triệu Lam Châu
Hình ảnh trong thơ Triệu Lam Châu là những hình ảnh quen thuộc của quê hương, bản làng, cuả núi rừng Việt Bắc, những hình ảnh mang hơi thở của cuộc sống vùng cao. Thơ ông hiện lên con người và thiên nhiên của đại ngàn, sông suối. Hình ảnh của thiên nhiên như: mây, gió, trăng, sông, núi và cả những sự vật xung quanh: đất, đá, cây cối, cỏ hoa, cả những con vật thân quen (con ngựa). Hình ảnh quê hương hiện lên với những trang phục: áo, quần, khăn, vòng… và tập tục trong sinh hoạt văn hoá, văn nghệ: điệu lượn, điệu sli, khèn, trống. Tất cả những hình ảnh đó không chỉ tồn tại ở nghĩa thực mà còn mang nghĩa biểu trưng: núi, sông, mặt trời, ngọn lửa, đá, con ngựa… những biểu trưng này có ý nghĩa tô đậm thêm sự gắn bó sâu sắc của nhà thơ với quê hương, bản làng thì mới hiểu sâu được những hình ảnh độc đáo này. Ngôn ngữ thơ của Triệu Lam Châu là những từ ngữ mộc mạc như cách nói hàng ngày, ngôn từ trong sáng, giản dị mang tính truyền thống của con người vùng cao. Đôi khi dùng những ngôn ngữ được chọn lọc công phu tạo nên những ẩn ngữ giàu màu sắc triết lý. Trong thơ Triệu Lam Châu ta bắt gặp ba giọng điệu chính: giọng kể, tả của những lời ăn tiếng nói hàng ngày mà qua đó thấy được cách tư duy, cách nghĩ và tâm hồn của người miền núi; giọng điệu thiết tha, nhẹ nhàng, tình cảm, đằm thắm, tâm tình và giọng điệu khoẻ khoắn, vui tươi, mạnh mẽ như tính cách con người miền núi.
4. Khi nghiên cứu về bản sắc dân tộc Tày trong thơ Triệu Lam Châu, tôi nhận thấy rằng Triệu lam Châu là một người con rất yêu quê hương dân tộc Tày của mình. Ông luôn trăn trở rằng mình còn có một gánh nặng trên vai là được ăn cơm Tày, được đi học trường Tày, được sinh ra ở quê hương Tày và được nuôi dưỡng bằng bầu sữa tâm hồn Tày nên ông mắc nợ người Tày rất nhiều, bây giờ khi đã có con chữ, đã có chút kiến thức ông muốn trả nợ cho dân tộc mình bằng cách đem hết sức lực mình, đem hết kiến thức của mình để cống hiến, làm giàu cho nền văn hóa Tày bằng cách sáng tác, dịch thuật những tinh hoa văn học của thế giới của nước nhà ra tiếng Tày để người dân lao động Tày, các em học sinh Tày và toàn thể đồng bào Tày có thể tiếp cận. Bên cạnh đó ông còn sáng tác thơ, nhạc để giới thiệu nét đẹp bản sắc văn hóa, thiên nhiên và con người tày ra ngoài tầm quốc gia và dân tộc.
Qua quá trình tìm hiểu ta có thể khẳng định nhà thơ Triệu Lam Châu đã góp phần bảo tồn lưu giữ và phát huy nền văn hoá đặc sắc của dân tộc Tày trong đời sống văn hoá, văn học Việt Nam hiện đại.
5. Triệu Lam Châu là một trong số các nhà thơ Tày xuất sắc trong thời kỳ văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã có đóng góp rất lớn cho thơ Tày nói riêng và cho văn học các dân tộc thiểu số nói chung. Trong quá trình sáng tác, Triệu Lam Châu đã xây dựng tác phẩm của mình từ nền tảng truyền thống văn hoá dân tộc, từ sự kế thừa và chắt lọc những tinh hoa truyền thống của văn học thiểu số.
6. Là người đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về thơ Triệu Lam Châu nên không thể tránh được nhiều thiếu sót trong quá trình nghiên cứu, tôi hy vọng sẽ nhận được nhiều đóng góp và phản hồi để xây dựng luận văn được hoàn thiện hơn và có thể phát triển thêm hướng nghiên cứu sau này. Tác giả cũng mong muốn có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu hơn nữa về thơ Triệu Lam Châu để có những đánh giá mới mẻ về nhà thơ dân tộc thiểu số này.
Quy Nhơn, năm 2014
NGƯỜI VIẾT: NGUYỄN VĂN THÔNG
Bài do nhà thơ, nhạc sĩ, dịch giả Triệu Lam Châu gửi tặng.
|