BBT Nguoixunghekiev.vn vô cùng vinh hạnh được đón nhận những ấn phẩm
sang trọng và chất lượng từ BBT Tân Văn - NXB Hội nhà văn!
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc:
SUY NGHĨ VỀ TRỜI TÂM LINH
TRONG THẾ GIỚI NHÂN QUẢ TRUYỆN KIỀU
qua bút pháp Nguyễn Du
(Nhân Đại thi hào Nguyễn Du được UNESCO vinh danh
DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI (12/4/2013)
GS TSKH Nguyễn Lai
Từ trước đến nay, khi nói đến thế giới nhân quả trong truyện Kiều, chúng ta thường nghĩ đến trời. Coi trời như một thực thể tâm linh, và coi cho hay muôn sự tại trời như một sức mạnh tâm linh chi phối cuộc đời đầy bất hạnh của Kiều. Nhưng thực ra, về một phương diện khác, dù sao, cũng phải thấy rằng sức sống đích thực của tác phẩm nghệ thuật, theo quy luật sâu xa của nó, không đơn giản chỉ là cái toát ra từ sự thuyết giải trừu tương mang tính định mệnh thông qua cho hay muôn sự tại trời của Nguyễn Du.
Chính vì thế, trong giảng dạy truyện Kiều, đã từ rất lâu, vượt qua nguyên nhân tâm linh cho hay muôn sự tại trời ấy, người ta đã vạch ra cái nguyên nhân xã hội đích thực sâu xa hơn và cũng trần thế hơn khi nói về chủ đề tư tưởng của tác phẩm: Truyên Kiều là tác phẩm tố cáo chế độ phong kiến thối nát chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ…
Vì sao có cách quy nạp khác nhau này?
Như đã đề cập,Truyện Kiều là một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Khi đến với loại tác phẩm này, bao giờ người đọc cũng thông qua sự rung động của con tim để hương tới hình tượng. Với người đọc, không có nguyên tắc trên thì không có cơ hội phát huy xúc cảm thẩm mĩ của chính riêng mình để đến đích thực với tác phẩm. Chính vì vậy, ta có thể dễ dàng hiểu tại sao, đối với người đọc, khi thâm nhập vào cuộc đời đau khổ “khi Vô Tích, khi Lâm Tri… nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương”… của Kiều, thì cái nguyên nhân trần thế đích thực kia đập mạnh vào cảm giác cảm xúc, lấn át cái nguyên nhân tâm linh cho hay muôn sự tại trời!
Như vậy, mặc dù cho hay muôn sự tại trời, nhưng ở đây Nguyễn Du không thể nào lấy nguyên nhân tâm linh để khống chế sức mạnh của nguyên nhân trần thế vốn hiện lên theo đường dây biểu cảm trong trái tim người đọc. Nghĩ cho cùng, đó chính cũng là lí do vừa trực tiếp vừa sâu xa giúp ta giải thích vì sao khi đi vào Truyện Kiều, người đọc trách trời thì ít mà căm ghét bọn đầu trâu mặt ngựa vô lương đang hiện hữu ở trần thế này lại nhiều hơn!
Cũng chính vì thế, tại đây, ta không thể không nhận biết cái mạch lô gic này ở ngòi bút Nguyễn Du. Trong cách lí giải của mình, hình như bao giờ Nguyễn Du cũng đặt nguyên nhân tâm linh ra trước. Nhưng khi miêu tả, qua bút pháp của mình, sau nguyên nhân tâm linh bao trùm ấy, Nguyễn Du không thể không diễn dịch kèm theo đó cái hệ quả rất trần thế làm xúc động lòng người .
… Trời làm chi cực bấy trời
Để ai vu thác cho người hợp tan..
… Phũ phàng chi bấy hóa công
Đầu xanh mòn mỏi má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chồng..
Có lẽ cũng chính vì vậy mà có người cho rằng Nguyễn Du vừa tâm linh vừa trần thế. Nguyễn Du trách trời, trách hóa công. Nhưng dù vậy, ở đây, đập mạnh vào cảm xúc cảm giác chúng ta không phải trời, mà vẫn là những hành vi khốn nạn của bọn quan lại sai nha và lũ đầu trâu mặt ngựa được Nguyễn Du miêu tả.
… Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi
Gìà giang một lão một trai
Một dây vô lại buộc hai thâm tình
… Rường cao rút ngược dây oan
Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người
Và bao nhiêu những cảnh đau lòng như thế cứ diễn ra trên mặt bằng của thế giới Truyện Kiều qua từng trang sách…Sau bọn quan lại, sai nha là đến mụ Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh. Sau gã Sở Khanh là Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến, là bọn Bạc Bà, Bạc Hạnh, v.v... Tất cả những thế lực của xã hội đen tối ấy thay nhau vùi dập cuộc đời Kiều, mang lại bao nỗi khổ đau, sầu thảm và nát tan trong tâm trạng Kiều:
… Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Xưa sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan nát như hoa giữa đường.
Không có bọn đao phủ bằng xương bằng thịt thì làm sao có sự đau đớn trần thế ê chề ấy?! Không có cái nguyên nhân trần thế gây bởi bọn vô lại trên thì làm sao người đọc có đủ căm phẫn oán hờn để nguyền rủa và tố cáo cái xã hộị phong kiến thối nát đang chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ..?!
Tóm lại, khi nói tư tưởng nhân quả trong Truyện Kiều (từ góc độ tiếp nhận tác phẩm theo đặc trưng riêng của nghệ thuật) thì vấn đề nhân quả ở đây không thể tách rời quy luật thẩm mĩ gắn liền với cảm xúc cá thể thông qua những cung bậc buồn, vui, giận, ghét… vốn là những phản ứng từ tác động của hệ thống hình tượng nhân vật đuợc miêu tả như cái đang diễn ra trong cuộc sống. Đây cũng là xuất phát điểm đầu tiên để chúng ta lí giải vì sao từ lâu, trong giảng dạy văn chương, khi kết luận về chủ đề tư tưởng của Truyện Kiều, chúng ta không bị áp lực nhiều bởi sự thuyết giải ngoại đề theo hướng tâm linh về nhân quả cho hay muôn sự tại trời !..
*
Với Nguyễn Du, nói đến thực thể trời tâm linh trong cho hay muôn sự tại trời dĩ nhiên là nói đến số phận. Và nói đến số phận ở đây cũng chính là nói đến một thế lực mà hầu như con người khó cưỡng lại được.
Cho hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao...
Rõ ràng, đây là cách giải thích thực thể tâm linh trời theo thuyết định mệnh với sự áp đặt sức mạnh của trời lên số phận con người. Tại đây, trong cách giải trình, có điều nghịch lí đáng nói hơn chính là sự vận hành cái lô gic rất riêng sau đây của chính nó: Không quy nguyên nhân gây ra đau khổ về phía thủ phạm, mà quy nguyên nhân gây ra đau khổ về phía chính bản thân khổ chủ (vốn được diễn dịch gắn liền với tài sắc thuộc về bẩm sinh của con người do trời sẵn định). Và khi tài sắc được hiểu là nguyên nhân trực tiếp đưa đến tai họa cho chính bản thân con người thì đó là cái nghiệp. Đúng vậy, tài sắc của Kiều chính là một cái nghiệp. Theo cách lí giải của học giả Trần Trọng Kim: "Chữ nghiệp của nhà Phật là dịch theo cái nghĩa Karman (tiếng Phạn) tức là những việc đã làm kiếp trước kết thành cái quả của kiếp sau. Có cái nghiệp ấy nằm sẵn trong mình, cho nên từ lời nói đến tiếng đàn đánh ra đều có cái giọng đau đớn sầu khổ. Người đã có cái nghiệp như thế tất là đa tình đa cảm. Hai cái đó là cái mồi vô hình, cái dây vô hình đưa người ta vào đúng cái nghiệp của chính mình.(Lời tựa Trần Trọng Kim viết cho Truyện Kiều, Nxb Tân Việt, Saigon,1941).
Vâng, cái nghiệp của Kiều là như thế đó! Khi kẻ nào… đã mang lấy nghiệp vào thân… thì kẻ ấy… cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa…!!!
Nếu nguyên nhân xã hội được quy về cái nghiệp thì dĩ nhiên cái nghiệp gắn liền với nguyên nhân bẩm sinh ở đây luôn được diễn dịch gắn với vấn đề tiền định, tiền kiếp nằm trong sự bao trùm của nhân quả…
... Rằng hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
… Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Từ góc độ nào đó, chúng ta có thể hiểu tài sắc vốn là lợi thế của con người. Trong cuộc sống thực tế, tài sắc gắn liền với truân chuyên nếu có chăng vốn chỉ là cá biệt. Nhưng chính ở đây, qua cách giải thích theo hướng “tâm linh hóa”, nó đã được khái quát thành vấn đề phổ biến. Và cũng chính ở đây, còn một điều trớ trêu đáng nói hơn: Mặc dù thế lực xã hội đen tối là nguyên nhân vùi dập tài sắc vốn được ngòi bút hiện thực của Nguyễn Du vạch trần, nhưng đồng thời cũng tại đây, hình như nó lại bị chính ngòi bút Nguyễn Du “tâm linh hóa” trong cách giải thích, khiến cho thực thể trời tâm linh được hiểu như một sức manh vô hình đứng sau thế lực xã hội đen tối. Đó chính là lúc tội lỗi do những thế lực đen tối gây ra được giải thích quy về phía khổ chủ thông qua cái điệp khúc “hồng nhan bạc mệnh” mang tính hướng nội, láy đi láy lại triền miên trong tâm trạng xót xa của Kiều
… Rằng hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu!
… Tẻ vui cũng một kiếp người
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru?!
… Phận sao phận bạc như vôi
Khăng khăng giữ lấy kiếp người hồng nhan…
… Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!
………
Rõ ràng, Nguyễn Du tâm linh hoá trong cách giải thích số phận Kiều. Nhưng không vì thế mà nỗi đau của Kiều không làm lay động đến tâm can người đọc. Vì sao vậy? Vì, qua ngòi bút của Nguyễn Du, Kiều đã bao nhiêu lần cố vượt lên định mệnh của chính mình. Nhưng càng cố vượt lên định mệnh bao nhiêu thì Kiều càng bị vùi dập và phũ phàng bấy nhiêu… Không phải hoàn toàn ngẫu nhiên mà khi viết tựa cho truỵện Kiều, năm 1925, học giả Trần Trọng Kim khẳng định… “Kiều cố sức bao nhiêu thì đau khổ lại đến với nàng bấy nhiêu. Người ta càng biết rõ lòng hiếu thảo của nàng, càng trông thấy nàng có sức vật lộn với cái định mệnh… Cái phần tốt phần hay của Kiều là ở chỗ, dù khổ sở như thế nào, nàng cũng giữ được cái tâm trong sạch, cái bụng nhân nghĩa và cái sức cố gắng phấn đấu với nghiệp chướng của mình. Cái giá trị con người ta ở đời cốt là ở chỗ ấy, mà cái nhân cách con người ta có rõ rệt ra, là cũng ở chỗ ấy” ( Lời tựa Trần Trọng Kim viết cho Tuyện Kiều, Nxb Tân Viêt, Saigon,1941)..
Vâng, Rằng hồng nhan tự thuở xưa Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?!
Đến đây, từ những xúc động dồn nén trong trái tim người đọc, phải chăng, ta có thể hỏi rằng: Nếu điều bạc mệnh không chừa kiếp hồng nhan là cái vốn bẩm sinh, thì không lẽ điều bạc mệnh không thể chừa cái lòng hiếu nghĩa và sự cố gắng vượt qua định mệnh để thể hiện lòng hiếu nghĩa trung trinh hết mực của nàng Kiều?! Và cũng thế… Khi nói đến nhân quả, dù theo hướng tâm linh của Trời Phật, thì cũng phải nói đến một chút công bằng nào đó của Trời Phật theo cái châm ngôn nhân quả “ ở hiền gặp lành” của chính nhà Phật chứ?! Chẳng lẽ ngoại trừ Kiều?! Chẳng lẽ thế gian đang hiện hữu này lại hoàn toàn vô cảm, không thể xót thương lòng hiếu nghĩa hết mực trung trinh của nàng Kiều.?! Và... chẳng lẽ thế gian này không đủ sáng suốt coi đó như là cái nhân giữa cuộc đời trần thế để từ đó cân bằng lại - bằng một cái quả nào đó cũng trần thế - cho người xấu số?!
Từ chỗ sâu thẳm trong tâm thức của người đọc, rõ ràng, hiếu nghĩa của Kiều là một phẩm chất nhân bản. Một phẩm chất nhân bản vừa cá nhân vừa xã hội cao đẹp nhất của nàng Kiều. Hiếu nghĩa là sức mạnh nhất quán vừa là động lực xã hội của Kiều. Nếu quả ở đời có mối liên hệ nhân quả theo phương châm của nhà Phật “ở hiền gặp lành” thì, dù sao, đây cũng chính là lúc cuộc đời của Kiều phải được đền bù …
Và đến đây, có lẽ cũng là lúc người đọc không vô cảm trước số phận của Kiều có thể mong chờ và đòi hỏi sự định vị lại ngòi bút của chính Nguyễn Du… Vâng, nếu thực thể trời trong cho hay muôn sự tại trời là một sự trải nghiệm tâm linh chưa thật hoàn chỉnh và chưa thật sự trần thế đối với thế giới con người thì phải chăng… đến đây, và giờ đây… trong phần còn lại của Truyện Kiều… Nguyễn Du phải làm cho thực thể tâm linh trời trở thành một TRẢI NGHIỆM VỪA TÂM LINH VỪA TRẦN THẾ sao cho nhân bản hơn và gắn bó hơn với số phận con người hơn…!!!
*
Đúng vậy! Để đáp ứng sự mong chờ “rất trần thế” của người đọc... đoạn tái hồi Kim Trọng xuất hiện… Có thể nói, đến đây, ngòi bút Nguyễn Du đã bắt đầu TRẦN THẾ HÓA LẠI THẾ GIỚI TÂM LINH.
Qua ngòi bút của Nguyễn Du, giờ đây Trời Phật trong Truyện Kiều đã hiện lên với một tâm thế khác. Rõ ràng, trời trong cho hay muôn sự tại trời không còn là một thực thể tâm linh vô cảm trước số phận con người trần thế…
. …Tâm thành đã thấu đến trời
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân
…Đoạn trường rút sổ tên ra
…. Khi nên Trời cũng chiều người
Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau
Đây là lúc cánh cửa mở ra cho sự xuất hiện đoạn tái hồi Kim Trọng! Nguyễn Du bổ sung đoạn tái hồi Kim Trọng vào cốt truyện gốc là một chứng cớ: Vâng, chứng cớ về mối liên hệ đi từ tâm linh trở về trần thế trong trái tim nhân ái… qua bút pháp nghệ thuật của mình… Cốt truyện gốc không có đoạn tái hồi Kim Trọng. Nguyễn Du bổ sung một cách sáng tạo đoạn này vào cốt truyện Thanh tâm tài nhân. Tại đây, nhà đại văn hào Nguyễn Du của chúng ta phán xử sự đời không phải bằng một sự chiêm nghiệm đơn thuần tâm linh mà là bằng một trái tim vừa tâm linh vừa trần thế của người nghệ sĩ. Có thể nói đến đây, ở đây, và giờ đây, cái gọi là tâm linh, với Nguyễn Du, đã trở thành một thứ tâm linh có lí tính. Và lí tính ở đây (theo cách nói của Lênin) rõ ràng “là một thứ lí tính có cơ sở cảm tính một cách vững chắc” từ trái tim trần thế đích thực của con người!...
Có người cho rằng đoạn tái hồi Kim Trọng chỉ là một biện pháp nghệ thuật... Theo tôi, nói như thế không sai nhưng chưa rõ. Và nói như thế đúng nhưng có lẽ còn hời hợt... Nói thế, phải chăng là chúng ta chưa tôn vinh đúng mức giá trị nhân văn sâu sắc trong việc “trần thế hóa cái thề giới tâm linh” từ chỗ sâu thẳm nhất nơi trái tim nghệ thuật của nhà nhân văn - nghệ sĩ thiên tài Nguyễn Du (qua sự sáng tạo thêm đoạn tái hồi Kim Trọng)!
Phải, không có gì quá tuyệt tác trong đoạn tái hồi Kim Trọng. Nhưng, nếu không có đoạn tái hồi Kim Trọng mà Nguyễn Du bổ sung thì, với người đọc, ý nghĩa xã hội nhân văn của Truyện Kiều chưa đủ rõ. Đặc biệt, nếu không có sự sáng tạo này thì mạch chủ đề tư tưởng sâu kín nhất ẩn trong cái lô gic Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài nơi Truyện Kiều không thể có được; và nếu có chăng, nó không đủ sức nặng hình tượng thẩm mĩ theo đúng quy luật văn chương để giải tỏa nỗi bức xúc đang cần được giải tỏa nơi trái tim người đọc…
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
… Và nữa... như chúng ta biết, trong Truyện Kiều, theo thống kê, có đến gần 50 tín hiệu trời. Trong đó 30 là trời gắn với phong cảnh thiên nhiên. Còn lại gần 20 lần, trời như là một biểu thức quy chiếu về sắc thái tâm linh theo hướng nhìn định mệnh. Nhưng hai yếu tố trời trong kết luận cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa là hai tín hiệu trời lần đầu tiên được dùng trong thế láy đối lập. Cách dùng trời gần trời xa với thế ghép đối lập trái nghĩa nằm trong văn cảnh nêu trên, ít nhiều, hình như đã trung hòa và giải tỏa bớt sắc thái định mệnh thiêng liêng theo hướng nhìn tâm linh vốn có ban đầu của Truyện Kiều... Giờ đây, trong cảm thức người đọc, trời gần trời xa không phải là ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên. Cũng không còn nguyên hình là một ẩn dụ về sức mạnh tuyệt đối của định mệnh nữa… Mà – vâng, trong tâm thức người đọc – hình như đó chỉ là một quy chiếu về sắc thái gián tiếp bắt đầu tự phủ định chính mình của chủ thể đang được xưng danh: TRỜI!
*
Cuối cùng, nếu đứng từ nguyên tắc tiếp nhận để chủ động xem xét một cách tổng quan cách xác lập và lí giải mối liên hệ giữa trời tâm linh với thế giới nhân quả trong Truyện Kiều, phải chăng, ta có thể nói được rằng: Nguyễn Du đã tận dụng tối đa phương thức “tâm linh hóa thế giới trần thế" để khai triển chủ đề Truyện Kiều; nhưng mặt khác, để mở rộng ý nghĩa xã hội của chủ đề, trong kết thúc, Nguyễn Du đã chủ động “trần thế hóa lại thế giới tâm linh” trong bút pháp và xu hướng nghệ thuật của chính mình... Chính từ đó, ta có thể khẳng định: Thực thể trời tâm linh kết hợp cùng lúc trong bản thân nó hai phẩm chất – tâm linh và trần thế; và, hai phẩm chất trên, nghĩ cho cùng, thực ra, đó chỉ là một dạng hình tượng - vâng, một dạng hình tượng không phải của thế giới xa lạ nào khác, mà đích thực là sản phẩm văn hóa tinh thần của chính thế giới con người!./.
Nguồn Tân Văn số 4 - NXB Hội nhà văn, 2013
Chủ biên Tân Văn - Nhà thơ Nguyễn Đăng Luận - Hội nhà văn Hà Nội
|