VanVN.Net - Nhìn chung, so với các thể loại khác trong văn học Việt Nam 1954–1975, số lượng tiểu thuyết về đề tài Điện Biên Phủ không nhiều. Nhưng mỗi tác phẩm đều có giá trị lịch sử, cung cấp cho bạn đọc một khía cạnh khác nhau về chiến dịch Điện Biên. Một số tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao, tạo ra được những bước ngoặt quan trọng, in dấu ấn đậm nét trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam như Người người lớp lớp, Cao điểm cuối cùng… Những tác phẩm này có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật, có khả năng trường tồn cùng âm vang của chiến thắng Điện Biên.
Điện Biên Phủ là một trong những đề tài lớn của văn chương. Trong các thể loại, thơ và ký chiếm số lượng nhiều nhất. Truyện ngắn ít hơn, nhưng cũng có tới hàng trăm tác phẩm. Do đặc thù về dung lượng, khiêm tốn nên truyện ngắn chỉ phản ánh một lát cắt nhỏ của trận chiến. Muốn tìm hiểu một cách đầy đủ toàn bộ chiến dịch Điện Biên, người ta thường tìm đến tiểu thuyết.
Trong số 180 tiểu thuyết cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954–1975, có khoảng 9 tác phẩm viết về đề tài Điện Biên Phủ. Ta có thể chia làm hai loại lớn: Một là những tác phẩm miêu tả trực tiếp chiến trường, tức là miêu tả từ điểm nhìn bên ngoài của nhân vật, như Người người lớp lớp, Cao điểm cuối cùng, Truyện một người bị bắt, Trong này Điện Biên, Dòng sông… Thứ hai là những tác phẩm miêu tả gián tiếp. Đó là hoạt động của hậu phương tiếp vận cho tiền tuyến như Chiến đấu sau hỏa tuyến, Thồ lên Điện Biên, Đằng sau phía trước... Hoặc miêu tả chiến trường thông qua hồi ức của các chiến sĩ Điện Biên như Bốn năm sau… Ngoài ra, còn hàng loạt tiểu thuyết khác có nhắc đến Điện Biên Phủ nhưng không xem nó như một đề tài chính trong tác phẩm.
Tiểu thuyết đầu tiên viết về Điện Biên Phủ là Người người lớp lớp của Trần Dần. Tác phẩm được viết ngay sau khi chiến dịch kết thúc. Tập I được in cuối năm 1954, tập II và III được in vào năm 1955, tổng cộng 239 trang. Nếu cho rằng, các tác phẩm Xung kích (1951), Vùng mỏ (1951), Con trâu (1952) chỉ là truyện vừa hoặc truyện ký thì Người người lớp lớp là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn học cách mạng Việt Nam.
Cũng trong năm 1955, bạn đọc còn đón nhận thêm một tiểu thuyết khác về đề tài Điện Biên là Dòng sông của Nguyễn Chân. Tác phẩm lồng ghép nhiều đề tài, trong đó có chiến dịch Điện Biên và miêu tả cả thân phận người lính thời hậu chiến. Năm 1957, có hai tiểu thuyết về đề tài này. Thồ lên Điện Biên của Đào Phương miêu tả cảnh dân công Thanh Hóa phục vụ chiến trường Điện Biên. Truyện một người bị bắt của Vũ Cao nói về thân phận của các tù binh Việt Minh bị địch bắt giam trong lòng chảo Điện Biên.
Bốn năm sau (1959) của Nguyễn Huy Tưởng miêu tả hai sắc màu Điện Biên trong chiến tranh và hòa bình. Tác phẩm phản ánh hoạt động khai phá đất hoang xây dựng kinh tế mới của các chiến sĩ Điện Biên. Năm 1961, Hữu Mai công bố cuốn tiểu thuyết hay nhất về đề tài Điện Biên Phủ là Cao điểm cuối cùng. Mặc dù có nhiều điểm giống với Người người lớp lớp, nhưng Cao điểm cuối cùng có cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn và được giới phê bình ưu ái hơn.
Năm 1962, Lê Khánh, Phan Đình Huyền công bố tiểu thuyết Trong này Điện Biên nói về cuộc sống khổ cực của người dân Điện Biên trong vòng kiểm soát của Pháp. Đằng sau phía trước (1974) của Hoàng Minh Châu là cuốn tiểu thuyết cuối cùng về đề tài Điện Biên trong bộ phận tiểu thuyết cách mạng Việt Nam thời chiến tranh.
Trong Cao điểm cuối cùng, Hữu Mai đã tái hiện thành công một không gian chiến trường khốc liệt và sinh động bậc nhất trong văn học Việt Nam. Tính khốc liệt của cuộc chiến được thể hiện qua sức mạnh vũ khí của quân Pháp: “Chúng còn dựng lên cả một hàng rào lửa trước vị trí. Cả thung lũng Mường Thanh sôi lên ầm ầm”, “Khúc hòa tấu rầm rộ ầm ầm như động biển của các cỡ pháo lớn”,“Không gian rung rinh vì tiếng máy bay”. Trước sự liều chết cố thủ của địch, quân đội Việt Minh bị tổn thất nặng nề. Có lẽ chưa có cuốn tiểu thuyết nào trong văn học Việt Nam đã mạnh dạn miêu tả tổn thất của bộ đội như tác phẩm này: “Dưới chiến hào, thương binh tử sĩ chặt như nêm”,“Những xác chết xám đen, trương nứt không còn ra hình người, nằm ngổn ngang khắp nơi”,“Họ đưa tay lên xoa mặt, tưởng là bị bùn đánh bắn vào, chợt nhận ra đấy chỉ là mảnh thi thể nát vụng của bạn đồng đội”. Khi nguồn bộ đội chủ lực đã cạn kiệt, các sĩ quan huy động cả vệ binh, vận tải, cấp dưỡng, nhân viên văn phòng… tiếp tục chiến đấu để giành thắng lợi.
Giá trị của Cao điểm cuối cùng còn được thể hiện ở cái nhìn khách quan của tác giả về cuộc chiến. Để khẳng định sự dũng cảm của Việt Minh, Hữu Mai đã chứng minh rằng, đối thủ của họ cũng không phải tầm thường. Quân Pháp không chỉ có hỏa lực mạnh mà còn có tướng tài. Dưới mắt của binh lính Pháp, De Castries quả là một anh hùng. Cô hộ lý Đờ Ga-la “giữ một ấn tượng tốt đẹp về vị tướng. Sao mà ông ta bình thản đến thế, bình thản một cách lạ lùng. Sao mà một vị tướng lại có thể giản dị và thân mật với mọi người đến như thế”. Chính nhờ có cái nhìn khách quan mà Cao điểm cuối cùng chinh phục cả bạn đọc nước ngoài. Trong các công trình nghiên cứu của mình, nhà sử học Bernard Fall (Mỹ) thường trích dẫn các đoạn văn trong Cao điểm cuối cùng và nhận định về Hữu Mai: “Nhà trần thuật Việt Minh này không phải là người huênh hoang”.
Nếu như Cao điểm cuối cùng thuyết phục bạn đọc ở cái nhìn khách quan, và mạnh dạn lột tả tổn thất của cuộc chiến thì Người người lớp lớp của Trần Dần lại hấp dẫn ở những trang văn bừng bừng khí thế chiến đấu. Các chiến sĩ Việt Minh dũng cảm lao mình trong “thác lửa rừng khói”, “rừng bom lửa”, “biển khói lửa”, “trận mưa sắt lửa”. Đôi lúc, tác giả cũng hơi “phóng đại” sự khốc liệt của chiến trường, nhưng có thể chấp nhận được vì nó có tác dụng tô đậm khí thế chiến đấu của binh sĩ. Trong văn học Việt Nam, khó tìm được những câu văn miêu tả chiến trận hùng tráng như thế này: “Cả miền khu đông sát khí đằng đằng”,“quân ta chạy như bão”,“xô lên như biển động”,“Quân ta đánh náo động cả lên, hai mũi cứ dọc ngang vùng vẫy, diệt một toán, lại diệt tiếp sang toán khác”.“Lửa chớp hung dữ, những tiếng nổ như tầm sét đánh (…) Cao xạ pháo ta đang đan lửa trên không. Bà già rụng, B26 rụng (…) Một cuộc đấu pháo đấu phi cơ kịch liệt, vang trời dậy đất diễn ra từ hai tiếng. Trong khi đó, bộ binh bộc phá dấn thân trong mưa lửa đánh phá hàng rào Him Lam! Người trước ngã, kẻ sau xô lên tiếp! Mặc dù đạn xé lửa thiêu, mặc dù xương tan thịt nát, người người lớp lớp xông lên”.
Đọc các tiểu thuyết về đề tài Điện Biên, ta không chỉ thấy được cuộc sống chiến đấu của Việt Minh mà còn cả phía quân Pháp nữa. Người người lớp lớp và Cao điểm cuối cùng đều có nhiều trang miêu tả nội bộ phức tạp của Pháp ở Hà Nội, Paris… Hữu Mai đứng từ địa hình Việt Minh phóng tầm nhìn sang hầm De Castries. Còn Trần Dần cho nhân vật Sâm bị địch bắt làm tù binh, qua cái nhìn cận cảnh của Sâm, toàn bộ cuộc sống phức tạp hỗn độn của phe địch hiện ra khá rõ nét. Cuộc sống của tù binh Việt Minh ở Điện Biên Phủ cũng được tái hiện trong Truyện một người bị bắt của Vũ Cao. Các tù binh Lượng, Đang, Nông… đã vận động binh lính địch mở đường cho bộ đội đánh vào đại bản doanh của Pháp. Trong nhiều tác phẩm văn xuôi về đề tài Điện Biên, tác giả chỉ miêu tả không gian chiến trận trong phạm vi đồn địch. Nhưng tiểu thuyết Trong này Điện Biên đã mở rộng đối tượng phản ánh. Khái niệm “chiến trường Điện Biên” bao gồm cả vùng dân cư nhiều dân tộc sinh sống. Pháp bắt thanh niên người Việt đi lính. Các binh sĩ như Bản, Lương, Khụt, Ơng, cai bếp… đã tìm cách làm nội ứng cho Cách mạng. Như vậy, “Trong này Điện Biên” không chỉ có phe địch mà còn có cả phe ta nữa.
Một số tác phẩm không chỉ miêu tả cuộc chiến Điện Biên mà còn phản ánh cả những hậu quả mà nó để lại. Tiểu thuyết Dòng sông có nhiều trang miêu tả khá sinh động trận đánh. Anh bộ đội Lương bị cụt mất tay và được cô y tá Na chăm sóc tận tình. Hòa bình lập lại, Tần chấp nhận hy sinh tình yêu để Na lấy Lương và giúp đỡ người thương binh này. Ta cũng gặp một mối tình bộ ba khác trong Bốn năm sau. Trong một trận đánh, anh bộ đội Doan cứu cô bé Ngàn thoát khỏi vòng lửa đạn, nay anh trở lại Điện Biên thì Ngàn đã thành thiếu nữ. Mẹ của Ngàn muốn gả cô cho Doan, nhưng anh lại vướng vợ ở Hà Nội. Anh mai mối Ngàn cho Cường, nhưng Cường bị vướng mìn cụt chân khi khai hoang. Những hình ảnh chiến tranh vẫn còn đó qua những bãi đất đầy bom mìn và trong vết thương lòng của mỗi người lính.
Nói đến chiến dịch Điện Biên, ta không chỉ nói đến những trận đánh trực diện giữa hai phe mà còn phải kể đến công việc tiếp vận. Hai tiểu thuyết Thồ lên Điện Biên và Đằng sau phía trước miêu tả những khó khăn vất vả của dân công Thanh Hóa chi viện chiến trường. Mặc dù không trực tiếp chiến đấu, nhưng họ cũng góp phần vẻ vang làm nên chiến thắng. Cậu thanh niên Quy trong Chiến đấu sau hỏa tuyến cũng mơ ước trực tiếp cầm súng chiến đấu nhưng không được thỏa nguyện. Cậu đã tiếp sức cho trận địa bằng cách tham gia đội xe vận tải chở hàng hóa vượt 400 cây số.
Trong số các tiểu thuyết về đề tài Điện Biên, mức độ kết tinh nghệ thuật rất khác nhau. Tiểu thuyết Bốn năm sau có cái hấp dẫn của cốt truyện đầy kịch tính. Thứ nhất là mâu thuẫn địch-ta được thể hiện qua dòng hồi tưởng của các nhân vật. Những quả mìn của thời chiến vẫn nổ trong thời bình làm Cường bị cụt chân. Mâu thuẫn thứ hai là trong nội bộ những người lính trở lại chiến trường xưa. Họ so bì với những người được ở lại Hà Nội êm ấm, họ chỉ thích cầm súng chứ không thích cầm cuốc, cãi nhau kịch liệt về phương thức canh tác… Mâu thuẫn thứ ba là sự trắc trở tình duyên giữa bộ ba Ngàn–Doan–Đào. Nói chung, dù chiến tranh hay hòa bình, vẫn còn đó nhiều xung đột gay cấn trên mảnh đất Điện Biên.
Cao điểm cuối cùng được xây dựng theo nguyên tắc “tam duy nhất” giống như sử thi Iliade của Homeros. Duy nhất về không gian: đồi A1 thuộc chiến trường Điện Biên. Duy nhất về thời gian: những ngày cuối cùng của năm cuối cùng trong cuộc chiến chống Pháp. Duy nhất về hành động: tấn công đánh chiếm “Cao điểm cuối cùng”. Ngoài ra, tác phẩm này còn hấp dẫn ở nghệ thuật miêu tả chiến trận. Người ta có thể cảm nhận chiến trường Điện Biên bằng tất cả các giác quan. Thị giác và xúc giác: “Buổi trưa, trời nắng to. Một thứ nắng màu đồng vàng chóe nung đỏ thêm quả đồi A1 đã bầm tím vì máu và lửa đạn. Gió Lào từng cơn đổ về nóng hầm hập như hơi tuôn ra từ một lò than”. Thính giác: “Khúc hòa tấu rầm rộ ầm ầm như động biển của các cỡ pháo lớn đã đổi giọng”. Vị giác: “Hơi thuốc súng làm miệng đắng, cổ họng khô rát”. Khứu giác: “những con quạ mê mệt vì mùi khắm lặm của những xác chết”…
Hữu Mai cũng dùng khá nhiều biện pháp tu từ để câu văn giàu hình ảnh sống động. Cách sử dụng chi tiết cũng rất đắt. Để khắc họa sự tàn khốc của chiến trường, tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần các hình ảnh đàn giòi (dưới đất), ruồi nhặng (lưng chừng), quạ (trên cao): “đàn giòi nhung nhúc đang hoành hành”, “Ruồi nhặng vo vo từng đàn, nhiều lúc đâm sầm vào mặt như có ai ném trấu”, “Trên đầu chúng tôi lúc này chỉ toàn quạ đen thôi”… Ngoài ra, cũng như nhiều tiểu thuyết khác về đề tài Điện Biên Phủ, Cao điểm cuối cùng còn hấp dẫn ở những tình tiết xung đột gay cấn giữa ta và địch.
Trong Người người lớp lớp, ta có thể tìm thấy tất cả các hình thức điệp. Nhiều nhất là lặp từ “đi” (325 lần), và lặp các động từ cùng trường nghĩa chiến đấu, góp phần tạo nên “không gian động”. Hình tượng lá cờ được nhắc hơn 150 lần. “Lá cờ phất sang phía đông: xung kích ở phía đông nổi dậy, xông lên cướp phăng đột phá khẩu!/ Lá cờ phất về hướng tây: xung kích ở phía tây đã vào đồn, dồn dập đánh diệt các hào, các ụ!/ Lá cờ phất sang mũi điểm, mũi điểm thọc mạnh! Phất sang mũi diện, mũi diện xô lên. Lá cờ phất đến đâu, chiến sĩ nổi dậy đến đó(…)/ Lá cờ vẫn quẫy. Lá cờ quay về hướng nào, xung kích ở hướng đó nổi dậy, kẻ địch ở đó tan, những người anh hùng ở hướng đó xuất hiện”. Ngoài hình thức điệp cú pháp như đoạn văn trên, còn có hình thức điệp đoạn ở chương 9, đây là hình thức điệp rất hiếm thấy trong văn xuôi hiện đại.
Người người lớp lớp có được một giọng văn hùng tráng của thể loại anh hùng ca. Nói như Hegel, tác giả sử thi đã mang trong mình “một dòng sử thi cường tráng” và “một hơi thở sử thi hùng mạnh” (Mỹ học). Trần Dần mang trong mình một ngọn lửa anh hùng ca hừng hực từ lòng chảo Điện Biên, và thổi nó vào trang văn. Qua đó, tác phẩm có một giọng điệu đặc biệt, khó có thể tìm thấy trong các tác phẩm văn xuôi khác.
(Nguồn: Văn nghệ số 18-19/2014)
Theo Hội nhà văn Việt Nam
|