Ảnh minh họa - nguồn Internet
Quê hương là nơi chôn rau cắt rốn, là chốn trở về của những đứa con xa. Quê hương với biết bao hoài niệm, là những gì nhỏ bé nhất, gần gũi và thân thương nhất. Ôi ngọt ngào biết bao hai tiếng Quê hương! Xin trân trọng giới thiệu cùng Bạn đọc tản văn của TS Đỗ Quang Hoà với những tâm tư của người con xa xứ!
Hôm nay đọc tin trên mạng, biết tin nhà thơ Đỗ Nam Cao, đã từ trần. Xem mục tiểu sử thấy ghi. Tên thật là Đỗ Sơn Cao. Sinh ngày 08-6-1948 tại Liên Hòa, Phú Xuyên, Hà Tây (nay là Hà Nội). Học Khoa Ngữ Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội....
Mình đã có lần đọc thơ của ông thi sĩ này này ở đâu đó rồi mà không nhớ ra được nhỉ ?.
Chợt nhìn thấy tập thơ của chú Lưu Trang dưới quê gửi cho tuần trước. Chú Lưu- Phú Xuyên- họ Đỗ. Nhớ ra rồi, trong tập thơ và ca dao, tục ngữ của của huyện Phú Xuyên xưa và nay, (không biết để đâu mà tìm chưa ra). Tập thơ dầy dễ đến mấy trăm trang, do UBND Huyện bỏ tiền ra in, ban chỉ đạo toàn chánh, phó chủ tịch Huyện, chú Lưu có chân chỉ đạo trong ban biên tập.
Vì là thơ, ca, hò, vè dân gian sưu tầm, mục tiêu số lượng là chính nên chất lượng không dám nói, chỉ được cái in đẹp. Không biết có phải vì có tay trong không mà phần thơ, ca, hò vè của xã Phú Yên hơi bị nhiều, có mấy bài vè của cụ lang Canh, bà nội chú Lưu Trang.
Chú Lưu là một nhà văn hoá dân gian, nhờ công sưu tầm ghi chép của chú và mấy vị nữa ở làng mà đám hậu sinh, năm thì mười hoạ mới đáo về quê như mình biết được lịch sử, văn hoá quê mình thế nào. Có thể coi các cụ là những người cần mẫn lưu giữ và chuyển tải hồn quê. Họ là những người có cuộc sống giản dị và nhân hậu như chú Lưu đây:
Sáng đi bừa
Trưa cắt tóc
Chiều dạy học
Tối làm thơ
Người đâu không ngẩn không ngơ
Mà sao bận sớm, bận trưa, bận chiều ?
Cụ Lang, làm nghề bốc thuốc, hay làm thơ, làm vè. Là em út nhà cụ nội, mình phải gọi là cụ trẻ, vì cụ không chênh tuổi với bà nội nhiều. Ngày bé tý, nhớ có lần về quê bà nội đã dẫn mình xuống thăm cụ. Một cụ bà nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, mặc váy, đầu cạo trọc như nhà sư. Cái làng Giẽ quê mình hơn trăm năm trước được cụ ghi lại như thế này:
“...Giai làng đi làm thợ may
Con gái ngày rày giữ việc đăng ten
Ai đi đến đấy cũng khen
Trẻ con làng Hạ kiếm tiền như chơi
Già thì ngồi mát thảnh thơi
Con giai đương thời xóc đĩa, tổ tôm
Liền anh làng Hạ cũng khôn
Xin phép mở cái chợ Hôm cuối Làng
Dãy hoa gạo đỏ bên đường
Dưới sông có bến, trên đường có ga
Lại thêm con đường hoả xa
Ô tô, tàu chạy thực là vui thay
Quán hàng bán đắt buôn may
Ả đào giở tỉnh, giở say làm tiền…”
Dãy hoa gạo đầu Làng ngót trăm năm sau, lại đi vào thơ bà Nguyễn Thị Vinh thế này:
“Ngày còn nhỏ, thích xa nhà
Đi đâu cũng được, miễn là được đi
Lang thang mây chẳng định kỳ
Có chân không bước, ích gì chân ơi!
Bây giờ mỏi bước đường đời
Đi đâu cũng chỉ nhớ trời một phương
Nhớ hoa gạo đỏ bên đường
Nhớ nhà rưng rức, hồn nương mây về”.
Nghe nói bà Vinh giờ định cư ở Na Uy. Trong một tác phẩm xuất bản ở hải ngoại bà viết " Nếu như bồng là loại cỏ lá dài và rất nhẹ , hoa trắng bay phất phơ trong gió như bông, mà văn học cổ của người Tàu thường nhắc đến , thì quê nhà tôi cũng có một loại cỏ giống thế nhưng người mình gọi nó là cỏ lau, nhỏ hơn lau sậy. Thời trẻ thơ tôi sống ở Hà Nội vào kỳ nghỉ hè tôi được về thăm quê nội ở làng Giẽ Thượng tỉnh Hà Đông. Từ làng tôi đến ga xép Cầu Giẽ phải đi bộ khoảng hai cây số đường làng hoặc có thể ngồi đò vì làng tôi nằm dọc theo nhánh của con sông Hồng Hà . nhưng cầu Giẽ chỉ là một ga xép không có một trạm bưu điện mỗi khi gửi một cái thư hay nhận bưu phẩm lại phải đi bộ chừng hai cây số dọc theo đường tàu đến ga Cầu Guột . Từ cầu Guột cũng có thể đi bộ dọc theo đường làng hay ngồi đò để đến làng Vân Hoàng là quê ngoại của tôi, mà từ nhỏ vì mồ côi cha từ năm lên bốn tôi ít được tiếp xúc với bên nội nên tôi đã coi Vân Hoàng là quê hương chính…."
Cái tình quê hương vấn vương, cái tình quê tha hương trong thơ bà Vinh lại trở về với bao hoài niệm trong thơ của thi sĩ Đỗ Nam Cao.
"Cho chân vào cái cối đời
Niềm tin ra bã lại vời đến quê
Cổng làng
Như lá bùa mê
Chợt kinh hoảng sợ
Chợt tê tái buồn
Làng ơi
Cúi lạy thành hoàng
Cho con được phép khẽ khàng vào quê
Ngõ quên trâu dẫn lối về
Vườn xưa mất dấu trăng thề vườn xưa
Bẻ gai bưởi để nhể chưa
Ruột con ốc vặn cay chua với gừng
Ngẫm mà kinh
Nghĩ mà mừng
Xắn tay áo vặn sợi thừng cột trâu
Ao tình quẳng hết lưỡi câu
Chụm tay hớt bống bế bầu bạn xưa
Bà còng đi chợ trời mưa
Con xin làm gậy đi đưa bà còng
Đụng non xanh mấy quả bòng
Nhả nhơi mấy sợi tơ hồng nhả nhơi
Lăn vào rơm rạ mà chơi
Còn mê hồn trận dạ thôi xin chừa
Đầm đìa bụi duối mưa mưa
Nơi chôn nhau đất giun vừa đùn lên
Dậy trời sấm sét vang rền
Mẹ ru con
Trôi đêm đêm sông Hồng
Nghe cuồn cuộn chảy mạch làng
Trong ràng rịt rễ những hàng tre xanh"
Những thi nhân từng trải nay dường như có chung góc nhìn về cái sự đi, về đường đời, khi đã thấm “ ... Mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ,. Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu…” (Cung oán ngâm khúc) .... đều hướng về quê hương, một chốn đi về
Mấy dòng cảm tưởng về quê nhà Phú Xuyên, Cầu Giẽ, điểm một vài bài thơ của mấy thi nhân người Làng và của một thi sĩ họ Đỗ mà mình chưa có dịp làm quen, vừa về với ông bà Tổ tiên.
Hà Nội 11/11/2011
Đỗ Quang
|