Một chiều xưa, trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không gian, mới rung đường tơ
Vương vấn heo may, hoa yến mong chờ
Ôi ! Tiếng cầm ca, thu đến bao giờ…(*)
Thơ và nhạc là những rung cảm vi diệu của tâm hồn. Nếu bạn được nghe những giai điệu mở đầu của nhạc phẩm “Trương Chi” với lời ca diễn cảm trong một trạng thái hoàn toàn thư giãn, bạn sẽ thấy sự huyền ảo của thơ nhạc như hòa quyện vào nhau, nâng hồn người ra khỏi mọi sự vướng bận của trần gian. Thật tài tình khi ngay câu mở đầu: “Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ” rất giàu hình tượng, đầy chất lãng mạn và bay bổng của tâm hồn với sự khoáng đạt của không gian vời vợi ngập màu trăng nước ấy, lại là hình ảnh cho tâm hồn trinh trắng như cả một trời thơ của Mỵ Nương. Trong cái không gian thơ trinh tưởng chừng như tĩnh lặng vô tư ấy, một cảm xúc từ dư âm của đường tơ như đang dâng lên chầm chậm và lan tỏa trong nàng…”Trầm trầm không gian mới rung đường tơ”. Khúc nhạc tình đã ngập một trời trinh trắng. Để cho “Vương vấn heo may, hoa yến mong chờ”. Và rồi một cảm giác bâng khuâng xa lạ đã đến với tâm hồn thơ trinh len lén, nhẹ nhàng, êm dịu như nâng niu, như ngần ngại. Nó chưa phải tình yêu, nó mới chỉ gợi lên sự trống vắng trong tâm hồn: ” Ôi tiếng cầm ca thu đến bao giờ?”.
Mùa thu là mùa của biệt ly, của những chiếc lá vàng vĩnh biệt sự sống trở về cát bụi và để lại trên trần gian sự luyền tiếc của những cành thu đầy cảm xúc. Thật tuyệt vời với chất thơ ngập tràn trong những giai điệu đầu tiên của nhạc phẩm Trương Chi!
Tôi quan niệm cho rằng một hình tượng văn chương có giá trị và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật là nó phải mô tả được trang thái trừu tượng. Mô tả được những cảm xúc tế vi của tâm hồn. Điển hình như hai câu thơ đầy mỹ cảm và tuyệt hảo của nữ sĩ Đặng Nguyệt Anh:
Một đời gió có vì ai.
Xô nghiêng chiều tím ra ngoài hoàng hôn.
Tôi đã nghe đi, nghe lại những giai điệu trác tuyệt với lời ca đầy hình tượng trong nhạc phẩm Trương Chi của Văn Cao. Với tôi, ông là thiên tài của nền âm nhạc Việt Nam đương đại.
Tiếng cầm ca như đem cả một mùa thu đến với giai nhân tuyệt sắc đã làm rung cảm bao nhiêu thơ nhạc trong nền văn hóa Việt – được nhắc đến trong nhạc phẩm nổi tiếng của Văn Cao – là của chàng Trương Chi, khi tiếng sáo tuyệt kỹ của chàng Trương vọng tới lầu son gác tía của Mỵ Nương. Câu chuyện tình Trương Chi đã gây bao cảm xúc nghệ thuật cho các bậc tài hoa anh kiệt của nền văn hiến Việt và nhạc phẩm Trương Chi của thiên tài âm nhạc Văn Cao cũng bắt đầu nguồn cảm hứng từ câu chuyện này.
Câu chuyện tình Trương Chi xuất hiện vào thời Hùng Vương và dấu ấn để lại xác định điều này chính là danh xưng Mỵ Nương, nhân vật chính với giọt lệ thiên thu làm tan tành chén ngọc, được kết tinh từ chính trái tim Trương Chi, như thách thức với thời gian, khắc khoải đợi chờ.
Thời đại Hùng Vương có thời gian tồn tại lâu nhất trong lịch sử nhận thức được trong các quốc gia của nhân loại. Những giá trị của nền văn minh lâu đời đó dù tan nát theo những diễn biến lịch sử. Nhưng những mảnh vụn còn lại, mặc dù chưa được phục chế hoàn hảo cũng đủ làm cho trí tuệ hiện đại của nhân loại phải kinh ngạc. Trong lịch sử văn minh nhân loại, có lẽ ít thấy một quốc gia nào sử dụng khái niệm văn hiến để nói về đất nước có lịch sử trải gần 5000 năm, kể từ thời Hùng Vương thứ I (2879 trước CN – theo chính sử). Bởi vì, bắt đầu từ thời Hùng Vương, nền văn hóa của đất nước này đã hướng con người tới sự hòa nhập trong tình yêu của con người đầy nhân bản. Những truyền thuyết, huyền thoại của nền văn học nghệ thuật thời Hùng dù còn lại rất ít, đều chứng tỏ điều đó. Đó là: Mỵ Châu – Trọng Thủy, Thạch Sanh, chuyện tình Trương Chi và rải rác trong những truyền thuyết lịch sử khác. Có thể xác định ngay rằng: Chuyện tình Trương Chi Mỵ Nương là câu chuyện tình hay nhất trong thể loại chuyện tình lãng mạn của thế giới. Bây giờ và mãi mãi về sau, hay trở ngược lại hàng thiên niên kỷ xuyên suốt qua quá khứ của các nền văn minh nhân loại, cũng sẽ không bao giờ có được một câu chuyện tình lãng mạn hay hơn thế nữa. Sự thăng trầm của Việt sử với hàng ngàn năm đô hộ của Bắc Phương và những cuộc chinh chiến liên miên, chủ yếu với Bắc phương trong một ngàn năm hưng quốc sau đó của Việt sử, đã khiến những di sản văn hiến Việt - trong đó có câu chuyện Trương Chi truyền miệng này – đã phải cô đọng lại và tóm tắt nội dung của nó. Nhưng với nội dung còn lại vượt thời gian tính bằng thiên niên kỷ với bao thăng trầm của Việt sử cũng đủ nhận thấy sự trác tuyệt đến huyền vĩ của tác phẩm văn học thuộc nền văn hiến Việt.
Vì là một tác phẩm văn học, nên chuyện tình Trương Chi khác với truyền thuyết lịch sử là không có sự hiện diện của vua Hùng. (Tất cả những truyền thuyết mang ý nghĩa lịch sử ẩn tàng của thời Hùng Vương bao giờ cũng bắt đầu bằng câu: “Vào thời Hùng Vương thứ….”).Nhưng người Việt gốc Văn Lang vẫn nhận ra dấu ấn của tổ tiên qua người con gái diễm hằng với thiên thu: đó là Mỵ Nương con quan tể tướng. May thay! Nếu không phải là Mỵ Nương, mà là một thiên thần thì câu chuyện đã nhạt nhòa với thời gian, còn đâu chất lãng mạn của tình yêu con người trong áng văn chương trác tuyệt, vượt thời gian đến tận bây giờ và mãi mãi về sau…
Câu chuyện kể rằng:
Ngày xưa, có một chàng trai đánh cá nghèo, mồ côi cha mẹ tên là Trương Chi. Anh rất xấu xí, nhưng thổi sáo rất hay. Đêm đêm anh thường đem sáo ra thổi. Bến sông anh đậu thuyền ngay gần dinh quan tể tướng, nên tiếng sáo của anh vang vọng đến dinh của ngài. Quan tể tướng có một người con gái tên là Mỵ Nương đã đến tuổi lấy chồng rất xinh đẹp. Mỗi khi Trương Chi thổi sáo, nàng lại ra cửa sổ phòng mình hướng về phía sông để được nghe tiếng sáo tài hoa của chàng và nàng đã say mê tiếng sáo ấy.
Rồi có một thời gian, Trương Chi ốm bệnh, Mỵ Nương không còn được nghe tiếng sáo của chàng. Nàng buồn bã tưởng nhớ tiếng sáo đến tương tư, rồi phát bệnh. Quan tể tướng hỏi nguyên nhân, biết chuyện, ông cho mời Trương Chi đến để thổi sáo cho nàng nghe.
Được nghe lại tiếng sáo, Mỵ Nương khỏi bệnh. Nhưng vừa nhìn thấy Trương Chi, nàng đã quay mặt đi vì chàng quá xấu. Còn Trương Chi lại đem lòng yêu Mỵ Nương, sau khi được gặp nàng.
Biết không thể gần nhau, Trương Chi buồn bã bệnh chết (Có bản chép chàng tự tử chết).
Trải bao năm tháng chôn vùi dưới đất, thân xác đã tiêu tan. Nhưng trái tim Trương Chi kết thành một khối ngọc đỏ thắm như thách thức với thiên thu, thủy chung chờ đợi. Về sau có người tình cờ tìm được khối ngọc này, tiện thành một bộ đồ trà và đem dâng quan tể tướng.
Trong một tiệc yến có Mỵ Nương cùng dự, quan tể tướng sai lấy bình trà quí ra dùng. Nhưng khi rót nước vào, Mỵ Nương chợt thấy trong chén trà của mình hình bóng con thuyền của Trương Chi và tiếng sáo ngày xưa vọng về. Công chúa khóc, nước mắt nhỏ vào trong chén và chén trà tan đi trong tay nàng.
Giọt lệ của Mỵ Nương không phải chỉ nhỏ vào chén trà khiến mối tình u uẩn của Trương Chi tan đi trong tình yêu của thiên thần. Cùng với trái tim ngọc đá của Trương Chi, giọt lệ từ cảm xúc trong tâm hồn Mỵ Nương đã rơi vào tận cõi thiên thu, đưa tình yêu đôi lứa đến đỉnh cao nhất của sự hòa nhập tâm hồn.
Mỵ Nương – nàng công chúa diễm hằng – bước vào không gian của tuổi buồn trinh nữ. Tâm hồn trong trắng của nàng chưa một lần rung lên với nhạc khúc tình yêu. Nhưng nàng lại tìm được sự đồng cảm trong tiếng sáo chơi vơi, đong đầy chất u buồn nhân thế của Trương Chi… đã đến trong nàng không biết tự bao giờ…
Tiếng sáo Trương Chi trầm buồn theo sóng nước, chơi vơi như cuộc đời bất hạnh của chàng. Chàng mồ côi cả cha lẫn mẹ, lại có một ngoại hình xấu xí bọc một kiếp nghèo. Nhưng thiên nhiên lại ban cho chàng cây sáo với tài năng tuyệt kỹ. Tiếng sáo của chàng an ủi cho chính lòng chàng. Trương Chi biết đâu trong lầu son gác tía bên sông lại có một tuyệt thế giai nhân, đang say đắm thả hồn theo tiếng sáo của chàng.
Ngay từ những đoạn mở đầu của câu chuyện tình, chất lãng mạn đã ngập tràn trong âm thanh vi diệu của tiếng sáo Trương Chi. Tiếng sáo ấy chơi vơi, xao xuyến rồi lắng chìm trong tâm hồn trinh nữ của Mỵ Nương. Giá trị nghệ thuật là dung môi để hai tâm hồn đồng cảm tìm đến nhau, rồi tan trong đó.
Từ chân trời góc biển bên kia lục địa Á – Âu sau đó hơn 2000 năm, đại văn hào Victor Hugo cũng không nỡ gán ghép khiên cưỡng mà cho cô gái Bôhêmiêng xinh đẹp lấy chàng Cadimodo gù, đã viết nên tác phẩm lãng mạn nổi tiếng thế giới và là niềm tự hào của nền văn học Pháp; đó là tác phẩm “Nhà thờ Đức Bà ở Paris”. Từ chối hợp hôn với một người đàn ông xấu xí tật nguyền, đó là quyền thiêng liêng của người phụ nữ; quyền của thiên chức làm mẹ mà Thượng Đế ban cho mỗi người nữ ở trần gian; để đảm bảo sự di truyền của giống nòi. Dù cho Mỵ Nương tìm thấy ở Trương Chi một sự hòa nhập tâm hồn, nhưng chàng quá xấu… không ai có thể trách nàng!
Tình yêu nam nữ không có sự hòa nhập xác thân nơi trần thế thì không có chất lứa đôi. Nhưng thiên tài của tác gia thời Hùng cũng như đại văn hào Victor Hugo đã tài tình tạo ra một hình tượng xấu xí của chàng trai, để khéo léo từ chối một sự hòa nhập thân xác đầy nhân tính; tình yêu đôi lứa trong tác phẩm chỉ còn lại phần tâm hồn. Đó là điều kiện để những thiên tài đưa chất lãng mạn đến sự rung cảm tế vi nhất trong tình yêu của con người. Với cõi tâm linh, ước mơ và sáng tạo là không giới hạn.
Trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris”, trái tim cô gái Bohemieng chưa hề rung cảm trước mối tình của Cadimodo – đã đến với nàng bằng tình yêu tự nhiên đẹp nhất ở con người. Kết thúc câu chuyện, Cadimodo ôm xác người yêu cùng chết trong hầm mộ. Thiên tài của Victo Hugo chỉ dừng lại ở đây.
Nhưng trong câu chuyện tình Trương Chi, sự lãng mạn đã thăng hoa đến mức tận cùng của tình yêu đôi lứa. Tác giả truyện tình Trương Chi đã tạo ra những khoảng cách từ chất liệu đời thực của thế nhân vốn ngăn cản tình yêu đôi lứa giữa Trương Chi Mỵ Nương. Đó là khoảng cách giàu sang tột đỉnh với sự nghèo khó tận cùng; khoảng cách của quyền uy tối cao trong xã hội và thân phận mồ côi, cô đơn và cuối cùng là khoảng cách mà chính Tạo hóa đem lại cho con người. Đó là khoảng cách giữa vẻ đẹp tuyệt mỹ của người con gái tuổi trăng tròn với sự xấu xí của người đánh cá nghèo Trương Chi.
Có thể nói rằng tác giả truyện tình Trương Chi đã thể hiện thiên tài siêu việt của mình khi không chỉ dừng lại ở khoảng cách đẹp xấu bởi quyền năng của tạo hóa cho hình thức nhân vật, như trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” – mặc dù chỉ với một khoảng cách này cũng để hạn chế tình yêu của thế nhân (Tất nhiên ngoại trừ sự thương hại). Mà cùng lúc tác giả câu chuyện tình Trương Chi đưa ra những khoảng cách tận cùng ở hai cực của những mâu thuẫn xã hội trong con mắt tha nhân vào hoàn cảnh nhân vật của mình. Đó chính là những khoảng cách làm ngăn ngại và ngăn cản tình người đến với nhau mà thế giới hiện đại gọi là “giai cấp”.
Nhưng chính từ khoảng cách tận cùng của những mâu thuẫn trong quan hệ xã hội ở con người đã đưa câu chuyện đến đỉnh của những câu chuyện tình lãng mạn. Khi tâm hồn của Mỵ Nương ở tuyệt đỉnh cao sang, quyền quý với sắc đẹp tuyệt trần vẫn hòa nhập và đồng cảm trong tiếng sáo tài hoa tuyệt kỹ của Trương Chi. Nghệ thuật âm nhạc chính là chất xúc tác tuyệt vời đã đẩy sự lãng mạn lên đến đỉnh cao nhất của câu chuyện , khi nó đã đưa tâm hồn con người đồng cảm và chia sẻ với nhau vượt qua tất cả mọi mâu thuẫn giữa con người với con người trong nhận thức của tha nhân.
Đến đây thì cũng đủ để mối tình trong câu chuyện mang tính vượt thời gian và chất chứa đầy chất nhân bản của tình yêu con người, khác hẳn những chuyện tình lãng mạn khác ở trần gian.
Trong “Nhà thờ Đức Bà”, Victor Hugo chỉ khai thác được một tình tiết đơn giản nhất để tạo khoảng cách giữa cái cực xấu Cadimodo và sự xinh đẹp của cô gái Bomehieng và tính lãng mạn của câu chuyên xuất hiện ở khoảng cách này với tình yêu vô vọng của Cadimodo. Còn trong truyện tình Trương Chi của nền văn hiến Việt thì đấy cũng mới chỉ là giai đoạn mở đầu cho cả một thiên bi diễm tình lãng mạn vào bậc nhất trong nền văn hóa của nhân loại. Cốt lõi của câu chuyện và chất lãng mạn đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật văn chương chính là sự thượng tôn nghệ thuật trong văn hóa tri thức vào thời Vương đạo thanh bình của đất nước Văn Lang, cội nguồn văn hiến Việt. Những khoảng cách của tha nhân với sự giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu đều chỉ còn là hình thức bên ngoài trang sức cho cuộc đời. Còn giá trị đích thực chính là cái tâm thánh thiện và trong sáng trong mỗi con người rung cảm với thiên nhiên, cuộc sống qua những gía trị nghệ thuật để tâm hồn con người đồng cảm với nhau và hòa nhập trong sự rung cảm nghệ thuật. Ở đây là hình tượng bằng tiếng sáo trác tuyệt của Trương Chi. Sự hòa nhập và rung cảm đồng điệu của con người trong dung môi nghệ thuật, xóa nhòa mọi khoảng cách quyền uy, sự giàu sang và vẻ đẹp thân xác chính là chất lãng mạn tuyệt vời, mang giá trị nhân bản cao cả và đầy tính minh triết của chuyện tình Trương Chi. Đây cũng là điều mà “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” - vốn được coi là thể loại chuyện tình lãng mạn nổi tiếng của văn chương hiện đại – không thể so sánh. Có thể nói rằng chỉ cần đến đoạn giữa của thiên diễm tình Lạc Việt cũng đủ để câu chuyện tình Trương Chi xứng đáng đặt vào hàng những câu chuyện tình lãng mạn hay nhất trong lịch sử văn minh nhân loại.
Nhưng tính vượt thời gian và đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật trong chuyện tình Trương Chi của nền văn hiến huyền vĩ Việt – khiến cho trong quá khứ, hiện tại và tương lai của tất cả nền văn minh nhân loại không thể có một câu chuyện hay hơn thế nữa. Đó chính là đoạn kết đầy huyền thoại đã đưa câu chuyện tình Trương Chi vào cõi bất tử của văn minh nhân loại, qua hình tượng nghệ thuật trác tuyệt với trái tim hóa đá của Trương Chi và giọt lệ thiên thu của Mỵ Nương.
Thế nhân kể rằng: “Trương Chi khi gặp Mỵ Nương qúa xinh đẹp và đem lòng yêu nàng”!?.
Có thật thế không? Tầm thường quá! Nó không phải bản chất của câu truyện tình trác tuyệt của nền văn hiến Việt. Cái đó chỉ là nhận thức trực quan về ngôn từ văn chương khi ghi nhận Trương Chi thấy Mỵ Nương xinh đẹp nên đem lòng yêu trong tuyệt vọng và tự tử chết (Hoặc bệnh chết). Một cái nhìn như vậy không mang tính hợp lý với toàn bộ kết cầu nội dung câu chuyện truyền miệng vượt qua bao thăng trầm của lịch sử với thời gian tính bằng thiên niên kỷ. Dù là chuyện thần thoại cũng phải có tính hợp lý của nó. Kết cấu và diễn biến toàn bộ nội dung câu chuyện cho thấy tiếng sáo Trương Chi chỉ có Mỵ Nương cảm nhận được và rung cảm với tiếng sáo ấy. Ở đây, nó có nét tương tự như câu chuyện Tử Kỳ với Bá Nha vậy. Điều này có thể minh họa bằng hai câu thơ đầy minh triết của nữ sĩ Ngân Giang:
Chuyện không hợp ý cười thêm gượng.
Đời thiếu tri âm sống cũng thừa.
Bởi vậy, khi biết rằng người có thể chia sẻ nỗi cô đơn tận cùng với tâm hồn chàng chính là nàng công chúa quyền quý cao sang và không thể gần gũi, chàng đã tự sát (Hoặc buồn bã sinh bệnh mà chết). Tương tự như Bá Nha đập đàn vì không còn ai chia sẻ. Tình yêu của Trương Chi nếu chỉ vì muốn lấy Mỵ Nương làm vợ, nhưng không được mà chết thì tầm thường quá. Nó không hợp lý với diễn biến nội dung câu chuyện. Bởi vì nếu chỉ có tham vọng hòa nhập thân xác thì câu chuyện sẽ kết thúc ở cái chết của Trương Chi.
Chính đoạn kết của câu chuyện mang tình huyễn ảo và màu sắc thần thoại đã xác định rằng Trương Chi không hề có tham vọng lấy Mỵ Nương, mà chàng chỉ cần chờ đợi một câu trả lời của một tâm hồn đồng cảm. Hình tượng trái tim hóa đá như thách thức với thiên thu, khắc khoải đợi chờ câu trả lời của Mỵ Nương đã xác định rằng: Chàng muốn tìm một sự hòa nhập tâm hồn vốn cô liêu tận cùng trong chàng và chàng chỉ còn tiếng sáo để gửi gấm nỗi buồn nhân thế. Sự miêu tả tính tuyệt kỹ tài hoa trong tiếng sáo của Trương Chi còn là sự gửi gấm cả linh hồn chàng hòa trong tiếng sáo.
Nếu bạn đã từng nghe những nghệ nhân hạng hai chơi nhạc vì đến giờ biểu diễn; đã từng nghe những ca sĩ hát nhép mà cố diễn cảm thì bạn sẽ thấy tính hòa nhập cả tâm hồn trong biểu diễn nghệ thuật sẽ mang lại những cảm xúc chân thành nhất của con người đến với nhau cần thiết như thế nào. Tác giả chuyện tình Trương Chi đặt nhân vật của mình trong một hoàn cảnh cô đơn tận cùng vì mồ côi cả cha lẫn mẹ với một kiếp nghèo và thân hình xấu xí. Đã vậy chàng Trương lại không phải sống ở nới đô thị phồn hoa, mà sống trên một con thuyền lênh đênh sông nước, vốn là một hình ảnh đầy cảm xúc của nội tâm khi con người trở về với chính mình. Trong hoàn cảnh cô đơn tận cùng trong tình nhân thế thì tiếng sáo tuyệt kỹ tài hoa của Trương Chi chính là hình tượng miêu tả cả tâm hồn Trương Chi gửi gấm một nỗi niềm sẻ chia và hòa nhập nỗi cô liêu trong tiếng sáo của chàng. Tất nhiên tiếng sáo chất chứa đầy sự u uẩn của Trương Chi cũng chứa đựng bao nỗi khát khao một tình yêu con người đích thực đến với chàng.
Tiếng sáo của Trương Chi đâu phải chỉ có mình Mỵ Nương nghe được. Nhưng ai rung cảm được tiếng nhạc lòng của Trương Chi bằng Mỵ Nương? Phải chi Trương Chi là Bá Nha, Mỵ Nương là Tử Kỳ thì chỉ đập cây đàn là xong. Nhưng Trương Chi không thể đập cây sáo rồi ra đi như Bá Nha. Vì ở Bá Nha chỉ là sự đồng điệu về nghệ thuật, không có người thưởng thức thì đàn ai nghe. Còn Trương Chi, ngoài sự đồng điệu về nghệ thuật; thanh âm tiếng sáo chính là thanh âm của tâm hồn chàng; khi ngoại hình xấu xí trong con mắt thế nhân, không phải là con người đích thực trong chàng. Rung động với tiếng sáo của Trương Chi, chính là sự hòa nhập với tâm hồn Trương Chi. Nhưng oái oăm thay, người hiểu được lòng chàng và hòa nhập với tâm hồn chàng qua tiếng sáo lại là một giai nhân tuyệt thế và quyền quý cao sang. Cho dù cha nàng với quyền uy tể tướng, có thừa khả năng để đưa chàng đánh cá nghèo thành một người có đầy thế lực. Nhưng quyền uy tể tướng, làm sao vượt được quyền năng của tạo hóa đã ghi dấu ấn trên thân hình xấu xí của chàng?
Trong ”Nhà Thờ Đức Bà ở Paris”, Victor Hugo chưa một lần để Cadimono tỏ tình với người minh yêu vì khoảng cách đẹp xấu. Đấy là tính nhân bản của câu chuyện này – Mặc dù hoàn cảnh nhân vật này có thể nói là cùng “giai cấp”. Tất nhiên tác giả thiên tài của nền văn hiến Việt trong câu chuyện tình Trương Chi đầy chất nhân bản cũng không thể đưa một người con gái xinh đẹp lấy một chàng trai thậm xấu xí cả.
Nếu như tác giả của chuyện tình Trương Chi và “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” cho nhân vật của mình lấy nhau thì sự ích kỷ lại chính từ chàng trai xấu xí. Đâu còn tính nhân văn và cao thượng của câu chuyện tình lãng mạn dù cách nhau hàng thiên niên kỷ. Cái chết của nhân vật trong cả hai câu chuyện chính là một trong những tình tiết giàu chất nhân tính và cao thượng của chuyện tình Trương Chi, có nét tương đồng trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” của Victor Huygo. Nhưng trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” thì cô gái xinh đẹp người Bôhêmiêng đã chết, để hai người cùng chết bên nhau với tình yêu say đắm của Cadimodo. Còn ở chuyện tình Trương Chi thì chàng nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh đã chết. Chàng chết, vì đã mất đi một nửa linh hồn khi chợt thấy ở trong sự rung cảm của Mỵ Nương với cõi lòng chàng. Chàng chết, vì không thể đem lại hạnh phúc cho nàng với một ngoại hình xấu xí. Câu chuyện tình đến đây cũng đủ chất lãng mạn và cao thượng, hơn hẳn so với nhiều câu chuyện tình nổi tiếng cổ kim.
Chính sự khao khát một tình người đồng cảm sưởi ấm cho tâm hồn cô liêu đến tận cùng của Trương Chi, khi đã tìm được sự hòa nhập của tâm hồn mà không thể gần gũi để sẻ chia, đã làm trái tim chàng hóa đá để thách thức với thiên thu, khắc khoải chờ câu trả lời của Mỵ Nương.
Giọt lệ của Mỵ Nương khi được nghe lại tiếng sáo Trương Chi rơi vào chén ngọc – được khắc họa bằng cả khối đá nội tâm (Biểu tượng bằng trái tim) tưởng như sánh với sự vĩnh hằng cùng tạo hóa – Hai tâm hồn hòa nhập, trái tim Trương Chi tan chảy bởi giọt lệ như nhỏ vào cõi thiên thu của Mỵ Nương. Giọt lệ thiên thu ấy mang cả một tâm hồn đồng cảm trong tiếng sáo năm xưa của Trương Chi, đưa câu chuyện tình vào cõi bất tử của văn minh nhân loại.
Đoạn kết của câu chuyện tình Trương Chi đầy huyền ảo trong sự hư cấu nghệ thuật, đạt đến đỉnh cao nhất của thiên bi diễm tình trác tuyệt và rất giàu chất nhân bản. Ở đây, chất lãng mạn đã được thăng hoa đến tận cùng và chứa đựng tính minh triết cao cấp nhất của mọi thứ triết lý của tha nhân trong lịch sử văn minh nhân loại, để ngàn đời sau – cho đến ngày tận thế – nhân loại sẽ không còn tạo dựng được một hình tượng hay hơn thế nữa. Hình tượng trái tim hóa đá và giọt lệ thiên thu đã nhắc nhở con người trở về với bản thể đích thực có trong mỗi con người – đó là cõi nội tâm và sự hòa nhập với sự vĩnh hằng – Nó đã xóa nhòa và vượt qua những khoảng cách mâu thuẫn xã hội và tham vọng của con người – dù biến thiên theo lịch sử – đã tạo ra cho chính mình và chấp vào đó ở nơi trần thế. Cũng như tượng thần vệ nữ ở Milo, những điêu khắc gia đầy tài năng của nhân loại hiện nay, chưa ai lắp nổi cánh tay cho nàng. Đôi cánh tay trần thế, không thuộc về vẻ đẹp của thiên thần.
Đây cũng là điều mà trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” một điển hình được ca ngợi về thể loại chuyện tình lãng mạn, đã không giải quyết được. Trong “Nhà Thờ Đức Bà ở Paris” Cadimodo đã chết theo người yêu, tuy giàu chất lãng mạn, nhưng không thể là một mẫu tình yêu của đời thường. Ngược lại, chính sự huyền ảo phi thực trong chuyện tình Trương Chi – thể hiện ở trái tim ngọc đá và giọt lệ thiên thu – đã đưa con người hướng tới một giá trị đích thực của tình yêu là sự hy sinh và hòa nhập tâm hồn, vượt qua mọi khoảng cách ngăn trở tình người trong cuộc sống tha nhân, nhưng lại không thể chứng tỏ được bằng cái chết.
Ở đây – trong đoạn cuối của chuyện tình Trương Chi – ngay cái chết là khoảng cách tuyệt vọng nhất của tha nhân trong tình yêu đôi lứa, họ vẫn đến được với nhau bởi sự hòa nhập vi diệu của tâm hồn qua tiếng sáo liêu trai mang trong thanh âm chất ngất nỗi buồn nhân thế.
Bằng những hình tượng nghệ thuật, tác gia Lạc Việt đã chứng tỏ được chất lãng mạn tuyệt đỉnh và mơ ước trong tình yêu đôi lứa: Đó là sự hoà nhập của tâm hồn, chính là nguồn nhiệt để vượt qua tất cả những ngang trái chốn trần gian ngăn cản tình yêu đôi lứa. Điều này đã khiến câu chuyện tình Trương Chi trở nên bất tử với thời gian sống mãi trong sự thăng trầm của lịch sử giống nòi Lạc Việt cho đến tận bây giờ. Tình yêu chính là cõi huyền diệu trong “Mùa xuân vĩnh viễn“ của nhân loại.
Chuyện tình Trương Chi, một chuyện tình lãng mạn cổ kim chưa từng có, vĩnh viễn đứng ở đỉnh cao của Kim Tự Tháp những chuyện tình lãng mạn của tha nhân, đã chứng tỏ trí tuệ bậc thầy của các tác gia đời Hùng để lại cho thế nhân qua hàng thiên niên kỷ…
Văn Cao, một nghệ sĩ tài năng tuyệt thế mà nhạc khúc Thiên Thai đã đưa linh hồn ông vào chốn vĩnh hằng ở cõi Bồng Lai. Ông không hề trách Mỵ Nương như không ít người lầm tưởng. Ông trách thế nhân còn có mảnh đời phụ bạc, trong những cuộc tình đã đến rồi đi trong cuộc đời ông, khi ông tìm thấy cảm hứng tuyệt vời ở “Chuyện tình Trương Chi” của nền văn hiến Việt, thách thức với thiên thu cho đến tận bây giờ.
Đêm nay,
Dòng sông Thương dâng cao,
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền,
Ta ca trái đất còn riêng ta,
Đàn đêm thâu.
Trách ai khinh nghèo quên nhau
Đôi lứa bên giang đầu
Người ra đi với cuộc phân ly
Đâu bóng thuyền Trương Chi?(*)
Đầu xuân xem lại câu chuyện tình Trương Chi, áng văn chương bất tử của nền văn hiến Việt, tôi không khỏi ngậm ngùi tình nhân thế với những gía trị huyền vĩ của Việt sử 5000 năm văn hiến.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?(**)
=======================
Chú thích:
* Lời bản nhạc Trương Chi của nhạc sĩ Văn Cao.
** Bài thơ “Ông Đồ” của nhà thơ Vũ Đình Liên.
(Tác giả Hà Thị Trực sưu tầm)