LÊ TRIỆU (1771-1846), thường gọi là Cả Triệu, tên tự là ễn Phủ, hiệu Liờn Khờ, quờ xó Hoàng Phong, huyện Hoàng Húa, tỉnh Thanh Húa. ễng khụng đỗ đạt, nhưng nổi tiếng hay chữ, được người đương thời ví như danh nho Nguyễn Hành (1771-1824) người Tiên Điền xứ Nghệ xưa: “Nghệ Hai Hành, Thanh Cả Triệu”.
Trước đây vỡ chưa sưu tầm được các trước tác của ông, mà chỉ dựa vào giai thoại, nên hiểu biết chưa đầy đủ, có nhiều nhầm lẫn! Vừa qua, nhờ phát hiện tác phẩm của ông "Liên Khê di tập” và “Nam hành tạp vịnh”, do người cháu nội sưu tập lại vào năm Nhâm Tí, triều Tự Đức (1852), trong đó có bài đề tựa là bút tích của ông và hơn hai trăm bài thơ, văn do ông sáng tác. Vỡ vậy đến nay mới biết rừ phần nào về năm sinh, năm mất và hành trạng của ông. Tác phẩm “Liờn Khờ di tập” có khoảng 160 bài thơ do tác giả sáng tác để đề tặng bạn hữu, phần lớn là các nhà khoa bảng, quan lại đương thời nhiều địa phương, có một số ở Nghệ An. Cũn tỏc phẩm“Nam hành tạp vịnh” gồm khoảng 60 bài kí, bài thơ viết về những địa danh nổi tiếng mà tác giả đó đặt chân đến, trong chuyến du hành từ Thanh Húa vào Huế.
Các trước tác thơ văn của Liên Khê bị mất mát nhiều, “mười phần chỉ mới sưu tập được một hai”(1). và hiện chưa dịch hết. Nhưng có một số bài rất giá trị, cả về nghệ thuật lẫn nội dung và hết sức độc đáo. Chẳng hạn bài thơ: “Kiến Quang Trung linh cửu” (Nhỡn thấy linh cửu vua Quang Trung). Nội dung cho biết tỏc giả đó đến tận lăng mộ vị anh hùng dân tộc Quang Trung, sau hai năm bị Gia Long khai quật, phi tang và công khai ca ngợi Quang Trung là anh hùng, lên án Gia Long là tàn bạo như Tần Thủy Hoàng, bị muôn đời chê cười(2). Hoặc bài thơ: “Khỏa nhị đại tiểu Trường Sa” (Đặt chân lên hai Trường Sa lớn nhỏ), nội dung cho biết cách nay trên 200 năm, Lê Triệu có thể đó tới thăm quần đảo Hoàng Sa và sáng tác thơ để lại!(3).
Như trên đó trỡnh bày, trong chuyến “Nam hành”, vào năm Giáp Tí, triều Gia Long (1804), Lê Triệu đi qua Nghệ An. Ông đó ghộ thăm một số bạn hữu, thắng cảnh danh lam xứ Nghệ và gửi lại những sáng tác thơ văn. Ví như mấy bài thơ: “Tặng Hoan Châu danh sĩ Đinh Bạt Nhự”, “Thướng Quốc tử giám tư nghiệp tiên sinh (Nghệ An nhân)”, “Bằng quận công sự ngẫu tác”, “Song Ngư sơn”, “Vọng Thiên Cầm sơn hoài cổ”, “Quá Kinh Dương Vương từ”... Trước đây chúng tôi đó giới thiệu được hai bài: “Vọng Thiên Cầm sơn hoài cổ”(4) và “Quá Kinh Dương Vương từ”(5). Năm nay nhân kỷ niệm ngày sinh của Liên Khê Lê Triệu, chúng tôi xin giới thiệu tiếp bài thơ tác giả viết tặng người anh em kết nghĩa, quê Chân Lộc Nghệ An, nhan đề: “Tặng Nguyễn Đốc học khế hữu” và 2 bài viết về vùng cương giới Nam, Bắc của Hoan Châu (xứ Nghệ) là: “Ngọc Sơn Lónh Khờ kớ” và “Hoành Sơn quan hoài cổ”.
Bài I -
Phiờn õm
“Tặng Nguyễn Đốc học khế hữu (Công Nghệ An nhân)
Thiên tải thư hi tín diệc hy
Bồng Sơn bố vọng nhược phân kỡ
Kiếm thư đắc lộ công hà quí
Sếnh bạt vụ tài ngó tự tri
Tựng bỏch hỉ giai tiền bản sắc
Quan san khởi trở cựu tương tùy
Hồng Phong, Châu Lĩnh sơn hà viễn
Điểu dục cầu thanh khởi quyện phi”
Dịch nghĩa:
“Tặng Nguyễn Đốc học người anh em kết nghĩa
(Ông người Nghệ An)(6)
Đó lõu lắm rồi ớt nhận được tin tức của nhau
Non Bồng nhỡn khắp mà thấy hai ta vẫn đôi đường chia cách
Kiếm thư ông thuận đường, ông chẳng thẹn thùng gỡ
Sếnh bạt tụi vụ tài, tụi tự mỡnh biết
Tựng bỏch mừng vỡ cả hai cựng giữ được bản sắc xưa
Sụng nỳi hỏ vỡ cỏch trở mà chỳng ta khụng được gần nhau?
Hồng Lĩnh, Chõu Phong (7) trời bao xa cỏch
Chim muốn tỡm tiếng gọi nhau mà cú quản gỡ mỏi cỏnh!”
Dịch thơ:
“Thư tín bao năm chẳng nhận gỡ
Non Bồng trụng ngúng nỗi chia li
Kiếm thư thuận nẻo ông nào thẹn
Sếnh bạt vụ tài tụi nhớ ghi
Tựng bỏch mừng nhau cựng giữ nếp
Quan sơn cách trở nỡ phân kỡ
Chõu Phong, Hồng Lĩnh trời bao cỏch
Mỏi cỏnh tỡm nhau chẳng quản chi!”
(Hồng Phi phiờn õm - HP,HN dịch thơ)
Bài II
Phiờn õm:
“Ngọc Sơn Lónh Khờ kớ
Ngọc Sơn chi Nam, kỡ địa hữu Lónh Khờ yờn. Truyền văn cửu hĩ!
Nhĩ lai ngu túc Bồng Môn lâm động dĩ Nam vị khuy tất bộ địa. Tuy văn tư khê danh diệc lónh khỏn liễu.
Tuế Giáp Tí chi mộ Đông dư dĩ Nam hành thân lí kỡ cảnh ngoạn kỡ tuyền nhi ỏi yờn. Cơ hữu trạc tuy chi tưởng, nải cúc kỡ thủy, tắc bạch như tuyết, lónh như băng như lí nghiêm sương, như mạo hàn lộ kỡ dữ tha khờ tương biệt nải tri tư khê chi danh bất thị lóng truyền.
Ngu dĩ sự khẩu chi. Thổ nhân vân: “Bất duy long động, tuy hạ thiên khốc nhiệt tuyền khê như thang nhi thử khê độc lónh. Vóng lai hành nhõn giai tá dĩ quán nhiệt giả. Y! ngu tri chi hĩ! Tuyền chi xuất ư thổ sơn giả thủy thường cam nhi ân. Tuyền chi xuất ư thạch sơn giả thúy thường đạm nhi lónh. Thị khờ tự Na Sơn phát nguyên, sơn mạch liên hành nhất vọng giai thạch, thạch trung hữu khiếu nhi truyền xuất yên. Dương hũa chi sở bất đáo, thổ khí chi sở bất xâm kỡ lónh giả hạt quỏi! Tuy nhiờn Khản Thủy chi tượng chúng âm hàm dương, gia bỡnh chi nguyệt nhị dương xuất địa tuy hằng hàn chi khê vị hữu bất đái ôn nhuận thời ý tứ duy tụ lạc sơn lạc thủy, giả tri chi phi biện vị phanh trà như Lục Vũ bối khả kế kỡ ba lưu dó, ngu cố hiểu nhi xuất chi”.
Dịch nghĩa:
“Khe Nước Lạnh ở Ngọc Sơn(8)
Phía Nam Ngọc Sơn, nơi ấy có khe Nước Lạnh. Tôi nghe nói đến khe này từ lâu. Gần đây tôi đi về Nam, tới Bồng Môn, cũng chỉ nghe, chưa nhỡn thấy, song vẫn thờ ơ chưa chú ý gỡ!
Mùa đông năm Giáp Tí (1804), tôi vào Nam mới thực sự bước chân lên mảnh đất này. Xem suối đó mà cảm thấy vô cùng yêu thích! Tôi định sẽ rửa ráy, tắm giặt, nhưng khi múc nước lên thỡ thấy lạnh và trắng như tuyết, như băng, như dẫm chân vào sương lạnh, giá, như đầu đội trên mưa đá! Khác hẳn với nhiều khe suối ở gần đó.
Tụi tũ mũ hỏi những người thổ dân qua đó, thỡ nghe một vài người bảo: “Khe này không phải chỉ đến mùa đông giá buốt, nước mới lạnh thế. Ngay cả khi mùa nóng bức dữ dội, các khe suối khác nước như sôi, riêng khe này nước vẫn giá lạnh như vậy! Khách khứa qua lại đây dùng nước khe này để tắm rửa giải nhiệt”.
ễi! Tụi rừ rồi! Suối chảy ra từ nỳi đất thỡ nước thường ngọt và ấm. Cũn nước chảy ra từ khe núi đá thỡ thường nhạt và lạnh. Khe phát nguyên từ núi Nưa(9), mạch nước chảy liên tục, nhỡn đâu cũng thấy toàn là núi đá. Trong núi đá có lổ nứt làm thành khe chảy ra. Khí dương hũa (mặt trời) khụng đến, khí của đất lại không thể xâm phạm, thỡ suối sẽ lạnh cú gỡ là đáng lạ!
Tuy nhiên, tượng của Khản thuộc Hành thủy.Tượng của nước là thuộc về hành Khản(10) .Trong âm khí có ngậm dương khí, nên trong tháng gia bỡnh thỡ khớ nhị dương ra khỏi đất, tuy khe lạnh song chưa hẳn là không mang theo hơi ấm ? Theo ý tụi cũng như những người có thú vui với núi non sông nước ai là không biết điều đó! Tuy chưa sành sỏi phân biệt loại nước nào đáng pha trà, pha nước, như các ông Lục Vũ (11) hay những người sau thành thạo, nên tôi chỉ ghi lại để biểu hiện cảm nghĩ của tôi mà thụi!”.
Bài III
Phiờn õm:
“Hoành Sơn quan hoài cổ
Bố Chính, Hoan Châu địa cực xung
Cổ lai hoành lạc nhất điều long
Việt Chiờm hợp nhận thiờn niờn sự
Nam Bắc phân mao đệ nhất phong
Hoàng Lí cố cương chiêu khấu lỗ
Bạch Võn di chỉ phục anh hựng
Hạnh kim cửu tế tam đồng hội
Vạn lí sơn hà tại mục trung”.
Dịch nghĩa:
“Qua Hoành Sơn nhớ chuyện cũ
Chõu Bố Chớnh và Chõu Hoan(12) địa thế vô cùng xung yếu, hiểm trở
Từ xưa đến nay bị ngăn cách bởi một dóy nỳi chắn ngang như hỡnh con rồng
Chuyện Việt Chiêm hai nước giao phong đó trải hàng ngàn năm
Nam Bắc ngăn đôi(13) cũng bởi một dóy nỳi này.
Đây là bờ cừi từ thời Lớ đó chiờu dụ được giặc dữ
Dấu vết xưa để lại là mây trắng trên đỉnh non cao khiến cho đời khâm phục các bậc anh hùng
Nhưng nay bờ cừi xa xưa cả ba đó thu về một mối
Muôn dặm non sông đều nằm trong tầm mắt”.
Dịch thơ: “Bố Chớnh Hoan Chõu thế hiểm xung
Xưa nay ngăn bởi một thân rồng
Việt Chiêm giao chiến ngàn năm chuyện
Nam Bắc phân đôi tách mỗi vùng
Cừi cũ Lớ Hoàng chiờu giặc dữ
Dấu xưa mây trắng phục anh hựng
Mừng nay ba cừi cựng chung mối
Muụn dặm thu về một nỳi sụng”.
(Hồng Phi phiờn õm và dịch)
Chúng tôi hi vọng rằng tới đây trước tác của Liên Khê Lê Triệu mới sưu tầm, được nghiên cứu, biên dịch đầy đủ và sẽ cung cấp thêm những áng thơ văn của ông, để bạn đọc Nghệ An và cả nước có hiểu biết trung thực, đầy đủ hơn về một nhà nho không đỗ đạt, nhưng phẩm cách và văn chương rất nổi tiếng được người đời truyền tụng!
--------------------------
(1) Theo bài tựa của người sưu tập viết năm Nhâm Tí triều Tự Đức (1852)
(2) Tạp chí Xưa và Nay số 245 (10-2005)
(3) Bài đó dịch nhưng chưa công bố
(4) Tạp chí Văn hóa HàTĩnh, 5-2000.
(5) Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 25-1-2007.
(6) Trong một bài họa thơ vị Đốc học họ Nguyễn, tác giả cho biết thêm ông này quê huyện Chân Lộc. Có thể là Nguyễn Bật Lượng, đỗ Cử nhân khoa Tân Tị, triều Minh Mạng (1821), từng giữ chức Đốc học chăng?
(7) Dóy nỳi Hồng Lĩnh thuộc Hà Tĩnh và Nghệ An xưa. Châu Phong là hũn nỳi Ngọc, thuộc huyện Ngọc, thuộc huyện Hoàng Hóa, quê hương tác giả.
(8) Ngọc Sơn là huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa bây giờ.
(9) Núi Nưa nay thuộc huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa.
(10)Theo Bỏt quỏi,Ngũ hành. Thuật ngữ trong Kinh Dịch.
(11) Học giả Trung Quốc thời Đường chuyên nghiên cứu về trà (chố)
(12) Là tỉnh Quảng Bỡnh và Nghệ An bõy giờ.
(13)Tỏc giả chỉ cuộc phõn tranh Trịnh Nguyễn.
Theo Tạp chí Văn hóa Nghệ An
|