Xứ Nghệ quê tôi có nhiều cảnh đẹp tựa tranh vẽ, những bức tranh sơn thuỷ hữu tình mà thiên nhiên đã ban tặng hẳn không phải nơi đâu cũng có. Chẳng thế mà khi nhắc đến Nghệ Tĩnh, người ta lại nghĩ đến câu ca dao quen thuộc:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Ai vô xứ nghệ thì vô
Câu ca dao kết thúc lửng là một lời mời khiến người nghe không khỏi tò mò về một miền quê của nắng và gió Lào. Đây núi Hồng Lĩnh hùng vĩ với “chín mươi chín ngọn”gắn liền với bao truyền thuyết về vùng đất thiêng. Bên dãy núi Hồng là dòng sông Lam êm đềm dạt dào thương nhớ:
Non Hồng ai đắp mà cao,
Sông Lam ai bới, ai đào mà sâu?
Chỉ hai câu ca dao mà đại từ ai xuất hiện ba lần như đưa con người dọc theo chiều dài lịch sử và chiều sâu văn hoá để trở về quá khứ. Biết bao thế hệ tiền nhân đã hiến thân cho mảnh đất quê hương để tạo nên vùng văn hoá Hông Lam lung linh bao sắc màu huyền thoại. Trải qua bao cuộc dâu bể, dẫu thời gian và năm tháng có làm thay đổi nhiều thứ nhưng núi Hồng - sông Lam vẫn hiên ngang, gồng mình chống đỡ với giông gió, bão tố để cuộc sống con người vơi bớt những nhọc nhằn. Núi Hồng - sông Lam không chỉ là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Nghệ mà nó còn trở thành hình tượng của sự nhớ thương:
Hồng sơn cao ngất mấy trùng
Lam Giang mấy trượng thì lòng mấy nhiêu
Hai bên lưu vực sông Lam, sông La, Ngàn Sâu, Ngàn Phố là những xóm làng yên bình của Đức Thọ, Nghi Xuân, Nam Đàn, Hương Sơn, Hương Khê...
Đức Thọ gạo trắng nước trong
Ai về Đức Thọ thong dong con người
Dọc theo chiều dài đất nước từ Bắc vào Nam, đứng sừng sững ngạo nghễ giữa đồng bằng Diễn châu là hình ảnh lèn Hai Vai. Lèn Hai Vai chính là hoá thân của ông Đùng, người anh hùng bị chém cụt đầu thời tiền sử:
Trèo lên chót vót Hai Vai
Ra tay khoát gió khoác vai ông Đùng.
Mỗi tên làng, tên núi, tên sông trong ca dao xứ Nghệ đều gắn bó thân thiết với người lao động, nó cụ thể và sinh động chứ không xa xôi, bóng gió. Mỗi địa danh đều tồn tại với một lí do riêng. Nhiều làng quê đi vào ca dao gắn với những đặc sản riêng của vùng từng vùng đất. Thứ đặc sản rất quen thuộc với mỗi người dân xứ Nghệ đó là chè xanh:
Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lục chợ Hạ, uống chè Hương Sơn.
Về Hương Sơn thưởng thức thứ chè xanh mới hái được nấu với nước sông Ngàn Phố vừa sánh đặc lại vừa chát đã làm say lòng người bao thế hệ. Ca dao còn có câu miêu tả độ sánh đặc của nước chè nơi đây:
Đọi nước chè em múc ra
Khặm đụa vô nỏ bổ
Việt Nam được coi là xứ sở của chè xanh, nhưng có thưởng thức chè xanh Nghệ Tĩnh mới thấy hết cái hồn quê đậm đà của ấm nước chè nơi đây. Người xứ Nghệ có cách uống chè độc đáo. Chè được nấu cả lá lẫn cành mới thơm ngon và đặc sánh. Dù trời nắng chang chang thì bát nước chè phải uống lúc còn nóng hôi hổi mới ngon, mới mát. Uống chè xanh cũng có hội gọi là “hội nước chát”. Quanh ấm chè chát mọi người cùng trò chuyện để gắn chặt hơn tình làng, nghĩa xóm và thậm chí bàn bạc cả những chuyện quan trọng như dựng vợ gả chồngcho con cái. Tình người xứ Nghệ được ví như đọi nước đầy. Nhiều vùng quê Nghệ Tĩnh cũng nổi tiếng với chè xanh như chè Gay (Anh Sơn - Nghệ An), chè rú Mả, chè Khe Yên ..:
Ai về Hồng Lộc thì về
Ăn cơm cá Bàu Nậy,
Uống nước chè khe Yên
Vùng ven biển thì nổi tiếng với những hải sản mang hơi thở của biển cả:
Ai về Cửa Hội quê tôi
Cá thu, cá nục, cá mòi thiếu chi.
Nhưng không phải vùng đất ven biển nào cũng được thiên nhiên ưu đãi, thế nên có địa danh lại gắn liền với bao nỗi nhọc nhằn của người dân An -Tĩnh:
Ai về Thạch Hạ mà coi
Bắc nồi lên bếp xách oi ra đồng.
Thạch Hạ là một xã ven biển thuộc huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. Đất đai ở đây bạc màu, con người bao đời vất vả dãi nắng dầm sương nhưng cái đói, cái nghèo vẫn đeo bám họ. Hình ảnh “Bắc nồi lên bếp, xách oi ra đồng” thể hiện cuộc sống tạm bợ của người dân.
Ngược lên miền sơn cước chúng ta sẽ có dịp thưởng thức những loại hoa quả đặc trưng:
Ai hay mít ngọt, trám bùi
Có về Cát Ngạn với tui thì về.
Vùng đồi núi, trung du, đồng bằng lại có những sản vật nổi tiếng:
Quê ta ngọt mía Nam Đàn
Bùi khoai chợ Rộ, thơm cam Xã Đoài.
Hay:
Bưởi Phúc Trạch, cam bù Hương Sơn, hồng vuông Thạch Hà
Thanh Chương ngon cá sông Giăng
Ngon khoai La Mạ, ngon măng chợ Chùa
Những món ăn dân dã như bánh đa, bánh tày (bánh chưng), bánh đúc, cháo kê cũng đi vào ca dao như thứ đặc sản mà người lao động hết sức nâng niu:
Bánh đa chợ Cày, bánh tày chợ Voi
Bánh đúc cháo kê là nghề làng Trại
Nói đến xứ Nghệ mà chưa nhắc đến nhút thì quả là còn thiếu sót:
Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn
Nhút là món ăn được làm từ mít xanh, xơ mít. Đây là món ăn gắn liền với các miền quê ở xứ Nghệ, món ăn của người nghèo. Nhưng nhút ngon phải chấm với tương Nam Đàn mới đúng vị.
Một món ăn đạm bạc không thể thiếu trong mâm cơm của người dân xứ nghệ trong những ngày hè đó là hến:
Quê tôi vốn ở Nguyệt Đàm
Tôi đi bán hến chợ Sa Nam gần kề
Hến tôi ngon gớm ngon ghê
Ai muốn ăn hến thì về quê tôi
Cũng có những địa danh gắn liền với nghề nghiệp:
Lắm ló Xuân Viên, lắm tiền Hội Thống,
Lắm nống Do Nha, lắm cà Lộc Châu,
Lắm dâu Cẩm Mỹ, lắm bị Kẻ Giăng,
Lắm măng Kẻ Cừa, lắm bừa Trung Sơn,
Lắm cơn Yên Xứ.
Các địa danh trên đều thuộc huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Dân Xuân Viên giàu vì lúa gạo (lắm ló: lắm lúa); Hội Thống giàu nhờ nghề biển và buôn bán. Do Nha nổi tiếng với nghề thủ công đan nống (nống là nong). Kẻ chính là tên nôm của làng.
Kẻ Dặm đục đá nấu vôi
Miệng thì thổi lửa, tay lôi rành rành
Kẻ Dặm (tức Diễn Minh) là một làng thuộc huyện Diễn Châu, dưới chân lèn Hai Vai người dân nơi đây sống bằng nghề đục đá, nấu vôi. Diễn Châu cũng là nơi nổi tiếng với nhiều làng nghề khác nhau như nghề rèn, nghề làm nước mắm, dệt võng, dệt vải, dệt chiếu…
Người Nghệ Tĩnh đôi khi còn lấy địa danh để nhắc đến tình yêu đôi lứa hay tự hào về con người của các vùng quê:
Trai Đông Thái gái Yên Hồ
Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên
Đông Thái thuộc xã Tùng Ảnh, Đức Thọ. Trai Đông Thái tài giỏi còn gái Yên Hồ (cũng thuộc Thọ, Hà Tĩnh) thì xinh đẹp, giỏi giang. Trai thanh - gái lịch nổi tiếng cả một vùng đất.
Trong ca dao còn có câu: Trai Đông Phái, gái Phượng Lịch cũng nghĩa như trên chỉ khác Đông Phái và Phượng Lịch thuộc huyện Diễn Châu, Nghệ An.
Đặng Sơn người đẹp nước trong
Dâu non xanh bại, tơ tằm vàng sân
Đặng Sơn là địa danh thuộc huyện Đô Lương, Nghệ An. Xã Đặng Sơn nằm ở ven sông có nghề truyền thống là trồng dâu, nuôi tằm. Con gái vùng này xinh đẹp, đảm đang.
Xôi nếp cái, gái Tràng Lưu
Tràng Lưu (nay là xã Trường Lộc, Can lộc, Hà Tĩnh) là một vùng đất văn vật. Gái Tràng Lưu thông minh, xinh đẹp, nết na nổi tiếng.
Các địa danh trong ca dao, tục ngữ có khi còn gắn liền với kinh nghiệm sản xuất hoặc dự báo thời tiết. Mỗi địa phương có kinh nghiệm dự báo thời tiết riêng:
Bao giờ Đại Huệ mang tơi
Rú Đụn đội nón thì trời mới mưa
Đại Huệ nằm ở phía bắc còn rú (núi) Đụn thì ở phía tây huyện Nam Đàn, Nghệ An. Người dân xung quanh đây hễ thấy mây bọc xung quanh núi Đại Huệ hoặc trùm đỉnh rú Đụn thì biết chắc trời sắp mưa.
Hay:
Bao giờ ngàn Hống mang tơi, rú Thành đội mạo thì trời mưa to
Mưa Cẩm Nang kiếm đàng mà chạy, mưa Kẻ Nại đứng lại mà giòm.
…...
Ngư dân chài lưới luôn phải đối mặt với bao hiểm hoạ từ thời tiết nên họ có nhiều kinh nghiệm tránh mưa bão:
Bao giờ mống Mắt mống Mê
Thuyền câu thuyền lái chèo về cho mau
Mống (tức là cầu vồng cụt), Mắt, Mê là hai hòn đảo nhỏ thuộc các huyện Diễn Châu, Nghi Lộc. Đây là kinh nghiệm xem thời tiết của người dân vùng biển, khi thấy mống dựng lên ở hòn Mắt, hòn Mê thì trời sắp nổi giông tố nên cần nhanh chóng tìm nơi trú ẩn an toàn.
Xứ Nghệ được xem là mảnh đất địa linh nhân kiệt, nhiều làng quê nổi tiếng về học hành khoa cử như làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu, Nghệ An), Tiên Điền, Tiên Bào (Nghi Xuân, Hà Tĩnh)....
Kinh kỳ dệt gấm thêu hoa
Quỳnh Đôi tơ lụa thủ khoa ba đời
Tiền Điền, Tiên Bào sinh anh hào thông thái
Cũng nói về mảnh đất địa linh nhân kiệt, nhưng xét về khía cạnh khác, có câu phương ngôn nổi tiếng: “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”nghĩa là nếu Thanh Hoá được hưởng nhiều ân huệ của vua thì Nghệ Tĩnh là đất được thần linh bảo hộ. Ở Nghệ Tĩnh, hàng trăm vị thần được lập đền thờ ở các làng xã. Nhắc đến đền thờ, dân gian có câu: “Đền Cờn, đền Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng” nhằm nhấn mạnh vẻ đẹp, tính linh thiêng và sự bề thế của bốn ngôi đền nổi tiếng bậc nhất xứ Nghệ.
Đền Cờn (hay đền Cần) thuộc xã Quỳnh Phương, Quỳnh Lưu, Nghệ An là một ngôi đền nguy nga, tráng lệ. Đền thờ tứ vị thánh nương gồm 3 mẹ con công chúa nước Nam Tống là Từ Hy Thái Hậu Dương Nguyệt Quả, các công chúa Triệu Nguyệt Khiêu, Triệu Nguyệt Hương và bà nhũ mẫu. Tương truyền, xưa có ba mẹ con công chúa Nam Tống bị chết chìm ở biển Đông, thi thể trôi dạt vào cửa Càn. Người dân thấy thi thể còn tươi tắn như khi còn sống, toàn thân toả mùi thơm như lan, như quế nên đã chôn cất và lập miếu thờ đàng hoàng. Đây là những nữ thần bảo vệ cho dân làng làm ăn thịnh vượng.
Đền Quả (còn gọi là đền Quả Sơn) toạ lạc dưới chân núi Quả Sơn thuộc làng Miếu Đường, xã Bạch Ngọc (nay là xã Bồi Sơn), Đô Lương, Nghệ An. Đền thờ Uy Mnh Vương Lý Nhật Quang - hoàng tử thứ 8 của vua Lý Công Uẩn. Ông là tri châu đầu tiên của Nghệ An. Tại đây, Lý Nhật Quang đã cống hiến tuổi xuân của mình để bảo vệ và xây dựng nước nhà, ông đã thực hiện chính sách huệ dân, khai khẩn đất đai, khuyến thiện, trừng ác thu phục được lòng người. Khi ông mất, người dân địa phương tưởng nhớ và lập đền thờ ông. Hiện tại trên đất Nghệ có trên 30 điểm lập đền thờ Lý Nhật Quang và đều coi ông là thành hoàng.
Đền Bạch Mã thờ vị tướng trẻ Phan Đà, một người nổi tiếng thao lược của nghĩa quân Lam Sơn. Ông là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh.Trong một đi lần thám thính tình hình quân địch ông bị giặc phục kích rồi tử trận. Con bạch mã trung thành mang ông về, đến xã Võ Liệt (Thanh Chương, Nghệ An) thì dừng chân. Tại đây ông được dân làng lập miếu thờ. Sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi, Lê Thái Tổ cho xây dựng toà đền bề thế.
Chiêu Trưng không chỉ nổi tiếng bởi sự linh thiêng mà còn mê hoặc lòng người bởi vẻ đẹp của núi non, biển trời hùng vĩ. Ngôi đền được xây dựng phía tây chân núi Long Ngâm, ngọn núi như một con rồng quấy đầu xuống nước. Đền thờ võ tướng Lê Khôi, cháu ruột của Lê Lợi nằm ở xã Thạch Kim, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Ông từng lập nhiều chiến công hiển hách cho nghĩa quân Lam Sơn.
Ca dao tục ngữ chính là tiếng lòng của người lao động, nó đẹp và sáng lung linh mà bụi thời gian không thể làm phai mờ. Nhờ nó mà cái hồn quê được mãi lưu truyền từ đời này sang đời khác để văn hoá Nghệ nói riêng, văn hoá Việt nói chung sẽ giữ mãi được bản sắc riêng./.
Tác giả bài viết: Nguyễn Thúy Hằng
http://gdthhatinh.violet.vn/entry/show/entry_id/9995109