(Bna) - Lớn lên từ quê, tuổi thơ của tôi gắn liền với làng quê, đồng quê ngập tràn nắng gió, những buổi chiều chăn bò lang thang, những ngày nghỉ học cùng bạn bè hả hê, rủ nhau đi bắt chạch đồng. Với tôi, loài cá ấy là cả một “khung trời” kỷ niệm.
Ngày đó, làng tôi có phong trào đào ao, lấy đất làm gạch, vì vậy nhà nào cũng có một cái ao trữ nước tưới rau, nuôi cá và làm cảnh, tạo nên một hệ thống ao làng dày đặc. Những hôm mưa lớn, chạch cá trong các ao làng lại theo nước chảy ra đồng. Đó cũng là lúc lũ trẻ làng tôi đội mưa đi bắt cá, đứa có “đó” thì mang “đó” đi đặt ở các cửa ao, các con mương; đứa có “rớ” thì mang “rớ” ra cất ngay trên các ao làng. Quần đùi, nón rách tung tăng trong mưa, chỉ có thế thôi mà được bao nhiêu là cá chạch, nặng chịch các giỏ, các oi mang theo. Mỗi lần mưa lớn là gác bếp nhà nào cũng đầy ắp thức ăn. Nhà tôi có 3 cái “đó”, mỗi cái một kiểu. “Đó dựng” làm bằng nan tre thưa, để đặt ở những nơi nước chảy xiết. “Đó loa kèn” đan tre dày kịt, thường đặt nơi có cống tròn. “Đó lừ” cân đối như cái ống, để đặt ở nơi nước lặng, vì tôm cá có thể chui vào được hai đầu. Những cái “đó” này, là phương tiện kiếm thức ăn cho gia đình tôi trong những ngày mưa lũ. Cha tôi thường dặn: “Con hãy tuỳ vào vị trí, mà đặt loại “đó”nào cho phù hợp, sẽ được nhiều cá hơn”. Mỗi lần trời mưa to sau những ngày nắng hạn kéo dài, là một dịp tốt để trẻ làng đi bắt cá, đúng như câu cửa miệng của chúng tôi thời đó: “Trời mưa, trời gió, vác đó đi đăng”.
Những ngày nghỉ học, nơi nào nhiều tôm lắm cá, là chúng tôi lại kháo nhau mang khau, chậu, rổ, rá, đi tát bằng được. Ngày ấy, cái khau đan bằng tre, gắn liền cùng mấy sợi dây thừng, là phương tiện tát nước phổ biến ở nông thôn, mọi nhà thường dùng để tát nước vào ruộng và tát cá. Tôi và lũ bạn biết múc nước bằng khau từ rất sớm, vì hay theo người lớn ra đồng. Mỗi lần tát cá, sau khi bắt hết tôm cá trên mặt ao, hồ, công việc còn lại là đào chạch dưới bùn. Chạch có đặc điểm riêng là khi nước cạn, chúng thường chui xuống bùn trú ẩn. Chạch cũng như lươn, thân tròn, trơn truột, rất khó cầm nắm, bắt chạch bằng tay là một việc không mấy dễ dàng. Bắt chạch trong bùn, cũng khó không kém “bắt chạch trong chum”.
Để bắt chạch sành điệu, lũ trẻ làng tôi đứa nào cũng phải trải qua một thời tập tễnh học đòi. Người tuy bé xíu, lội trong bùn bì bõm, nhưng tay thì thoăn thoắt đào xới hết cả mặt ao. Mỗi khi chạch chạm vào tay, chúng lại giãy lên đành đạch, bắn bùn tung toé để tìm đường lẩn trốn. Chạch to, khoẻ sức chui sâu, chạch nhỏ nhanh nhẹn, dễ thoát, bắt chạch dưới bùn đỏi hỏi phải tinh mắt, nhanh tay.Tát một con mương, hay một cái ao nhỏ xíu cũng được gần “nồi hai”, “nồi năm” chạch đồng; xong việc, tất cả chia phần cho nhau đều đặn. Dù lội bùn, đào chạch rất mệt, nhưng đứa nào, đứa ấy đều vui tươi, hồ hởi vì kiếm được thức ăn cho gia đình và quan trọng hơn là được nghịch bùn thỏa thích. Hôm nào tát cá, bắt chạch là hôm đó thân thể, quần áo bê bết bùn đất, chỉ còn đôi mắt rạng ngời.
Những ngày đặt “đó” hay đi tát cá, bắt được nhiều chạch, nhà nào cũng biết nuôi tạm, để làm thịt ăn dần. Chạch được làm sạch bằng tro và trấu, sau đó mới kho, rán, nướng, om, bằm viên… tuỳ thích. Mẹ tôi thường kẹp chạch vào những thanh tre tươi, rồi nướng trên bếp than hồng, vừa lật, vừa quạt cho đến khi chạch cong queo, vàng rộm. Bữa nào nhiều chạch quá, không thể nướng được thì phải om bằng trấu. Trước khi om, chạch được đổ lên lá chuối tươi, trải trên mặt đất, úp nồi đất hay chảo rang thật kín; đổ trấu lên, châm lửa om, âm ỉ mấy tiếng đồng hồ. Om chạch không mất công, nhưng phải căn thời gian thích hợp để lấy chạch ra, nếu không thì bị cháy. Sau những buổi chiều tát cá, đi trong làng, thấy trước sân nhà nào nhóm lửa nghi ngút khói, đích thị là nhà đó đang om chạch. Chạch sau khi nướng và om, người quê tôi thường kho với tương. Phi hành mỡ thơm, thả chạch vào, đổ một ít tương pha loãng, nêm gia vị và nấu. Khi mùi thơm lan toả là món chạch đồng đã sẵn sàng cho những bữa cơm. Nhiều hôm “nổi” siêng, tôi vẫn hăng hái cùng mẹ dùng dao băm chạch làm viên. Món chạch cuốn lá lốt của làng tôi, ai đã từng ăn thì sẽ còn nhớ mãi, bởi mùi vị thơm ngon và cả sự liên tưởng đến âm thanh băm chạch đều đặn đến nao lòng.
Ngày mùa, chờ cha đi cày về, hay sau những buổi học, nôn nao ngồi chờ cơm của mẹ, thì bữa ăn có món chạch đồng mẹ nấu, béo ngọt, thơm lừng, là niềm mong đợi của hầu hết lũ trẻ làng tôi. Đã qua rồi cái thời cơm độn ngô khoai, cả làng luôn khát khao chuyện “cơm no, áo ấm”, nay cuộc sống thôn quê đã có bao thay đổi, nhưng món chạch đồng thì vẫn còn như tự ngày xưa. Dù lên rừng, xuống biển với bao “sơn hào hải vị” cao sang, người quê tôi đi xa cũng đâu có dễ quên được hương vị chạch đồng thân thuộc.
An Nam
|