(Baonghean) Những ngày cuối năm 2011, tôi lên làng Phan, tổng Thông Lạng (nay là xóm 8, xã Hưng Tân, huyện Hưng Nguyên), được nghe câu chuyện về cụ Nguyễn Thị Tích - chiến sỹ hoạt động cách mạng được gặp đồng chí Lý Thụy (Bác Hồ) năm 1931, ở Trung Quốc.
Tại ngôi từ đường họ Nguyễn, tôi bắt gặp tấm ảnh cụ Nguyễn Thị Tích lồng trong khung kính trang trọng. Tôi thắp nén hương thơm lên bàn thờ gia tiên viếng cụ. Ngồi bên bộ bàn ghế đơn sơ tại nhà ngang, cụ Nguyễn Trọng Ái kể: Cụ Tích sinh năm 1916, còn có tên là Hoàng Lệ Minh, Lý Phương Thuận, Ngô ứng Thuận, Lý Tiểu Muội, trong một gia đình có truyền thống yêu nước, hiếu học. Cha của cụ là Nguyễn Trọng Quyến, sớm giác ngộ cách mạng.
Khi lên 9 tuổi (năm 1924), cụ Tích được người cha gửi nhờ một chiến sỹ yêu nước tên là Cố Khôn, đi theo đoàn thanh niên xuất dương. Lúc bấy giờ theo tiếng gọi của cụ Phan Bội Châu thanh niên xứ Nghệ đã vượt núi băng rừng ra nước ngoài hoạt động. Cụ Tích rời gia đình sang Lào để học chữ, lớp học này có 5 người do đồng chí Vũ Tùng thay mặt đoàn thể phụ trách, sau đó cụ lại được đoàn thể đưa sang Xiêm học tại trường Hoa anh học hiệu.
Một năm sau, cụ được đưa sang Quảng Châu (Trung Quốc) học tại Trường Trung Sơn tiểu học với tên mới là Ngô Ứng Thuận. Tốt nghiệp cụ được đoàn thể phân công làm việc tại cơ quan bí mật của chi bộ hải ngoại của Đảng ta, do đồng chí Phùng Chí Kiên phụ trách. Một thời gian sau, cụ được đồng chí Lý Thụy bố thí vào làm công nhân ở Nhà máy Điện Kỳ và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc. (1)
Tháng 4/1931, cụ Nguyễn Thị Tích được giao nhiệm vụ giúp việc trong cơ quan của Việt Nam cách mạng thanh niên ở Hồng Kông với vai trò là người dịch tài liệu và làm giao liên. Lúc này, cụ mang tên mới là Lý Phương Thuận, với lý lịch người Nam Kinh (Trung Quốc) là cháu của Tống Văn Sơ (Bác Hồ).
Sáng sớm ngày 6/6/1931, cánh cửa nhà số 186 phố Tam Lung (Hồng Kông) bị đập mạnh. Ông Tống (Tống Văn Sơ) ra mở cửa. “Ông Là Tống Văn Sơ?” – Người sỹ quan Anh hỏi vừa đưa mắt cho đám cảnh sát tùy tùng. “Vâng, các ông cần gì?”. Ông Tống Văn Sơ, ông chính là Nguyễn Ái Quốc, tội nhân vắng mặt ở Đông Dương, ông bị bắt!”. (2)
Cùng bị bắt với Tống Văn Sơ còn có Lý Phương Thuận. Trong phiên tòa xét xử Tống Văn Sơ lần thứ nhất (31/7/1931), Lý Phương Thuận được tha vì không đủ chứng cớ buộc tội. Biết Lý Phương Thuận khó thoát khỏi bủa vây của bọn mật thám, từ trong nhà giam, Tống Văn Sơ đã bí mật viết thư giao cho Phương Thuận đưa đến Cường Để đang lánh nạn ở Nhật Bản. (Ông được cụ Phan Bội Châu bố trí làm Hội trưởng Duy Tân hội). Lý Phương Thuận ở nhờ Cường Để một thời gian thì phải trở về Quảng Châu, vì Cường Để bị Nhật trục xuất. Sợ bị lộ, cụ Lý Phương Thuận đến Thượng Hải rồi lại về Quế Châu. Do bị mất liên lạc với đoàn thể, cụ làm nhiều nghề để sinh sống.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nghe tin nước nhà độc lập, cụ Lý Phương Thuận vội trở về Tổ quốc. Đến Thủ đô Hà Nội, vào nhà người quen là Tống Minh Phương, Lý Phương Thuận thấy gia đình treo cờ Tổ quốc và ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ bàng hoàng xúc động nhận ra ngay là đồng chí Tống Văn Sơ!
Chiều hôm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi đồng chí Lê Giản, Tổng giám đốc Nha Công an Trung ương đến. Người đưa tay về phía Lý Phương Thuận và nói: “Đây là cô Hoàng Lệ Minh, người đã từng trải hoạt động bí mật có nhiều kinh nghiệm. Chú rất cần những cán bộ như thế này tìm hiểu và đối phó với bọn Tưởng”… Hoàng Lệ Minh nhận nhiệm vụ đặc biệt trong vai trò một người tiếp viên bàn tại khách sạn Thăng Long trước ga Hà Nội, nơi bọn Tưởng chiếm làm nơi ở. Trần Lung, người trực tiếp sử dụng Hoàng Lệ Minh phục vụ cho công tác trinh sát nắm tình hình âm mưu thủ đoạn của giặc Tưởng, về sau làm đến chức Cục trưởng Cục Hình sự Bộ Công an. Cụ Nguyễn Thị Tích - Hoàng Lệ Minh hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, sau đó trở thành người bạn đời của Trần Lung. Hai ông bà có một gia đình hạnh phúc tại Hà Nội. Cụ qua đời vào ngày 12/12/1995… (3)
____________
(1) – Lời kể của cụ Nguyễn Trọng Ái, 80 tuổi, xóm 9 – Hưng Tân, Hưng Nguyên
(2) – Nguyễn Ái Quốc trên đường về nước (Thanh Đạm), NXB chính trị Quốc gia – NXB Nghệ An, 1994 tr.137
(3) – Địa chí văn hóa Hưng Nguyên, Ninh Viết Giao, Thái Huy Bích, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009, tr.751
Phạm Xuân Thành
|