\
Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh và gia đình
Tôi gặp nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh lần đầu tiên tại một cánh rừng Tây Bắc. Hồi đó tôi là một tân binh ở Sư đoàn 391 đóng quân ở Thuận Châu (Sơn La). Sư đoàn được giao nhiệm vụ mở con đường chiến lược 279 vì tình hình biên giới phía Bắc lúc ấy đang diễn biến phức tạp. Do có chút năng khiếu về văn chương, nên cán bộ quân lực Sư đoàn rút tôi về ban sáng tác của đội tuyên văn. Một sớm, chúng tôi được đón đoàn nhà văn tạp chí Văn nghệ Quân đội đi thực tế. Trong đoàn có một người thấp đậm, vầng trán rộng và đặc biệt là đôi mắt mở to tinh anh đầy cá tính với giọng nói miền Trung pha chút giọng Bắc, tác phong rất giản dị, cởi mở và hóm hỉnh. Đó là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh. Ôi, chú Cảnh đó ư? Người mà tôi đã thuộc lòng rất nhiều bài thơ của ông khi còn đi học phổ thông. Tôi nhớ trước lúc lên đường nhập ngũ có mấy câu thơ của ông gây ấn tượng trong bài thơ “Mẹ”. Chỉ mấy câu thơ ngắn mà gói trọn cả ba tâm trạng như một tình huống kịch trên sân khấu. “Ăn đi con, nào đưa cho mẹ xới – Mẹ vẫn giấu con chuyện này xóm dưới – À thôi, chẳng vội để mai sau – Giặc tan rồi nắng đỏ chín buồng cau”. Lại biết nhà thơ quê ở Hà Tĩnh, nên mấy ngày đó tôi quấn quýt bên ông. Hai chú cháu đồng hương dắt nhau ra suối. Con suối miền Tây Bắc trong veo chạy lượn lờ dưới những tán cây gạo đỏ tháng ba. Tôi ngập ngừng gửi cho ông mấy bài thơ ngắn. Sau đó về Hà Nội ông chọn bài thơ “Múa nón ở Mường Giàng” gửi cho nhà thơ Vũ Từ Trang in ở trang văn nghệ báo Thương nghiệp và nhận nhuận bút, ông mua mấy tập thơ hay gửi lên cho tôi.
Trong lúc vui chuyện ông kể cho tôi nghe quê ông ở Đại Nài (Thành phố Hà Tĩnh). Một xóm nhỏ mà có đến bốn hội viên Hội nhà văn Việt Nam: Viện sĩ Hoàng Trinh, nhà văn Văn Linh tác giả của “Mùa hoa dẻ” nổi tiếng, nhà thơ Cẩm Lai với tập thơ “Chồi biếc – Tơ tằm” in chung với thi sĩ Xuân Quỳnh và ông. Rú Nài cũng là địa danh cả nước biết đến với trận đánh bắn rơi 12 máy bay Mỹ ngày 26 tháng 3 năm 1965. Trung đoàn 103 của bộ đội địa phương Hà Tĩnh đã tiếp nhận ông lúc mới 13 tuổi (1947) ông trở thành cậu liên lạc Vệ quốc đoàn. Cha ông hồi đó là anh nuôi của trung đoàn này. Tôi cứ ngạc nhiên không hiểu vì sao nhập ngũ sớm như thế, việc học hành bị gián đoạn mà nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh lại có vốn văn hóa khá đầy đặn, sâu sắc toàn diện. Hóa ra ông tự học và say mê đọc sách. Khi gặp ông ở sư đoàn 391 tôi thấy ông đang đọc tập thơ “Lá cỏ” của nhà thơ Mỹ Oan Uýt – Man bằng nguyên bản tiếng Anh do nhà thơ Trần Mạnh Hảo tặng. Chữ ông viết rất đẹp. Bao giờ gửi thư cho tôi ông cũng đề: Phú thân yêu, và cuối thư là một chữ ký “Chú Cảnh” thật phóng khoáng, sang trọng và bay bổng.
Còn nhớ, hồi tôi về học ở Đại học kỹ thuật Quân sự trên Vĩnh Yên, ông mừng lắm. Nhưng rồi lại cười, tiếng cười hết sức sảng khoái: “Ta tin rằng rồi đây cháu lại bỏ cuộc kỹ thuật như ta đã từng bỏ nghề văn công để đi với thơ trọn đời”. Ông vốn là diễn viên đoàn văn công Quân khu Trị Thiên tham gia cuộc tổng tiến công Mậu Thân 68 và viết: “Năm Mậu Thân tôi có về - Bắn mươi băng đạn rồi nghe em hò” của tiểu đội mười cô gái sông Hương. Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh là thế. Không lấy gì làm quan trọng hóa mọi thứ cứ tưng tửng chơi chơi mà thật nghiêm túc trong lao lực với những con chữ. Ông thường hay dùng đại từ “Ta”. Như “Ta thường nghĩ”, “Ta vừa...” nó bao hàm cả mối quan hệ rộng rãi chân thành của ông với mọi tầng lớp trong xã hội nhưng cũng đầy cá tính chất “gàn” của xứ Nghệ pha vào đó tính lịch lãm, uyển chuyển thông tuệ của kẻ sĩ Bắc Hà. Ông không bao giờ cố chấp, bảo thủ. Nhưng cương trực thì có, cương trực đến cùng để bảo vệ lẽ phải. Ông từng là diễn viên đóng vai “Trung úy Phương” của vở kịch “Nổi gió” nổi tiếng đến nỗi gặp ông họ chào: Trung úy Phương. Bố ông vì quý con đã treo bức ảnh “Trung úy Phương – Phạm Ngọc Cảnh” trong nhà đến nỗi mấy anh bộ đội ghé qua và nghỉ tạm để hành quân vào Nam đã không dám ở vì cứ tưởng đây là nhà...Trung úy Phương. Và Trung úy Phạm Ngọc Cảnh sau tập thơ “Đêm Quảng Trị” : “Đêm Quảng Trị dắt ta vào trận đánh – Thủ pháo rung rung đầu kíp nụ xòe” đã dứt khoát từ giã phong màn sân khấu mà như ông nói:“Nếu đi với sân khấu chắc chắn bây giờ ta bét nhất cũng có danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú” để về tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ngôi nhà số 4 từng có một thế hệ vàng các nhà văn. Tôi đã từng là cộng tác viên gặp gỡ ba nhà thơ biên tập: Một Vương Trọng cẩn thận đến sốt ruột, một Nguyễn Đức Mậu chu đáo đến ân cần, một Anh Ngọc bay bổng đến tài hoa. Và thi sĩ Phạm Ngọc Cảnh đã hội tụ được tất cả các điểm mạnh của ba nhà thơ áo lính ấy.
Tôi nhớ, hồi đó nhà chú là ngôi nhà cấp 4 ở trong khu tập thể Cầu Đuống nhưng lại ở cuối con đường. Trong căn phòng làm việc của ông xếp rất nhiều sách. Trước bàn làm việc là tấm ảnh của văn hào Ðôt-xtôi-ep-xki đang nhìn xuống tư lự. Cửa sổ của bàn viết nhìn ra cánh đồng xanh thảm mạ tít tắp. Một sự sống non tơ run rẩy ùa vào trang viết. Hồi đó kinh tế còn quá nhiều khó khăn, nhưng những lần tôi nhảy tàu từ ga Vĩnh Yên về ga Yên Viên – Cầu Đuống bao giờ ông và Cô Tỵ đều giữ tôi ở lại chơi, có khi vài ba ngày. Cô Tỵ vốn là diễn viên múa của đoàn văn công Tổng cục Chính trị. Cô quê ở làng Bưởi, dáng người rất đẹp và nấu ăn rất ngon đúng chất hào hoa thanh lịch của người đất Tràng An. Vì thế lúc chú Cảnh vào miền Nam lấy bút danh Vũ Ngàn Chi, chính là họ của cô. Cô Tỵ hồi đó đã ra quân và làm cán bộ tổ chức của nhà máy gỗ Cầu Đuống. Trong những lần gặp gỡ ở nhà chú, khi biết tôi nóng lòng muốn chuyển về hoạt động văn học nghệ thuật vì những ngày ở Đại học Kỹ thuật quân sự trên bàn học của tôi luôn có hai trang vở: Một ghi nhận những bài giảng kỹ thuật khô cứng với những bản vẽ chi tiết máy đòi hỏi chính xác, một bên là trang thơ ghi vội những cảm xúc chợt đến. Một tâm trạng giằng co rất đồng điệu với chú như khi chú Cảnh thập thò bên cánh gà chờ đến vai diễn của mình thì tứ thơ ấp đến. Chú bảo: “Giá như bây giờ cháu có một trường ca thật hay thì ta sẵn sàng lên trường xin cho cháu chuyển ngay”. Trường ca – trường ca, mấy tiếng đó như một điệp khúc réo rắt thúc giục ở trong tôi. Vì thế khi về học ở trường Viết văn Nguyễn Du, bài thi đầu vào của tôi là trường ca “Đám mây màu vảy cá” và sau này thể loại tôi thích nhất vẫn là trường ca. Chú Cảnh không viết trường ca nhưng có một bài thơ dài mang âm hưởng của trường ca khá độc đáo, đó là: “Lý Ngựa Ô ở hai vùng đất”. Bài thơ viết năm 1976 còn âm vang chiến thắng, niềm tự hào về Tổ quốc thẳm sâu tình yêu quê hương đôi lứa. Nhịp điệu hội tụ văn hóa ba miền Bắc, Trung, Nam hòa quyện cảm hứng lịch sử và con người cá nhân, thực và ảo, bay bổng dạt dào mang âm hưởng dân ca và bóng dáng huyền thoại, truyền thuyết. Đặc biệt tôi rất thích nhịp luyến láy rất mới mẻ ít thấy trong thơ Việt Nam: “Hóa vô tận bao điều mơ tưởng ấy – Bao câu hát ông cha mình gửi lại – Sao em thương câu lý ngựa ô này – Sao anh nghe đến lần nào cũng vậy – Sao chỉ thấy riêng mình em đứng đấy – Chỉ riêng mình em hát với anh đây”. Đọc thơ ông tôi cứ hình dung nhịp điệu sân khấu ùa vào, hình dung ông đang đọc thơ với cái lắc lư gấp gềnh vó ngựa với phong thái hào sảng thi sĩ và cũng không ít những quặn thắt nén lòng của một Phạm Ngọc Cảnh tài hoa nhưng đường đời lận đận. Có một Phạm Ngọc Cảnh của thơ lục bát rất riêng để tả những tâm trạng ông muốn khát khao chia sẻ. Thơ lục bát của ông thường ngắn đi từng cặp một. Câu 6 và câu 8 nâng dìu nhau, nhiều ẩn dụ khép mở, tỏ mờ như bài viết về xe ôm: “May còn thức một vòng lăn – Người cơ cực nhặt miếng ăn cuối ngày”. Lục bát trong thơ ông không mượt mà trôi chảy với những tính từ đèm đẹp mà luôn có những đảo phách động từ với độ nén, độ văng, độ keo như muốn dính kết vào tâm trí người đọc. Ví như trong bài “Lục bát để dành” ông viết: “Bắt con Tép mại làm vua – Con Cáy làm giặc, con Cua làm hề - Bắt con sông Mã lôi về - Câu huầy dô ướt dầm dề trước sân” và trong cuộc đời thường không phải ông “Bắt con sông Mã lôi về” mà chính “Con sông Mã” với tình yêu của cô Giáng Hương – Một người yêu thơ ông với sự chờ đợi hai mươi năm đã “bắt” ông về Thanh Hóa sau khi ông hơn mười năm chăm sóc cô Tỵ bị tai biến nằm liệt tại giường và khi cô mất thì ông mới trở lại với tình yêu đơn phương của người con gái xứ Thanh. Nhưng oái ăm thay số phận không chiều người khi ông lại bị tai biến. Và người con gái xứ Thanh ít hơn ông ¼ thế kỉ ấy lại chăm sóc ông cuối đời.
Sinh thời nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh là người rất yêu quê, thương mẹ và các em. Tôi nhớ, mẹ chú Cảnh ở với cô em út tên là Hợi làm nghề thuyết minh phim ở một ngôi nhà nhỏ phía sau trung tâm văn hóa tỉnh bây giờ. Tôi nhớ lần đó chụp cho bà một tấm ảnh sau đó phóng to. Chú Cảnh khen “Tay máy nghiệp dư mà chụp có thần”. Tôi chỉ biết lúc tôi chụp là tôi nhớ đến bà nội tôi cũng khuôn mặt phúc hậu, bao nếp nhăn hằn sâu và bỏm bẻm nhai trầu. Nhà văn Trần Đắc Túc kể: “Những năm khó khăn ấy anh đã phát nhiều bài kí của chú Cảnh trên đài PT – TH Hà Tĩnh để gom những đồng nhuận bút nhỏ ấy gửi cho Hợi nuôi bà như chú Cảnh nói là: xóa đói giảm nghèo”. Mới biết nhà thơ của 13 tập thơ với giải thưởng danh giá Nhà nước về VHNT tặng ông 2007 thì chú Cảnh còn là người viết 600 lời bình cho phim tài liệu để có tiền nuôi vợ bị bại liệt và nuôi mẹ ở quê. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý đã từng kể cho tôi nghe: Lúc ông rời nhà số 4 nghỉ hưu thật nhẹ nhàng thanh thản. Thủ trưởng Tổng cục Chính trị ngỏ ý gặp ông. Nhà thơ nói với Tổng biên tập tạp chí: “Nói với các anh ấy – Ta cám ơn. Cứ đưa giấy tờ cho ta thế là xong. Đừng phiền các anh ấy”. Khi được quân đội cấp cho miếng đất ở khu văn công Mai Dịch nhiều người bảo ông đến chọn. Ông nói: “Thôi cấp cho ta thế nào ta nhận, nếu ta chọn được may thì người khác thiệt” Ông đã đi khắp mọi miền đất nước với hành trang thật đơn giản chỉ với một cái túi nhỏ khoác trên vai trong đó có một cuốn sổ tay ghi chép và vài thứ đồ dùng cá nhân, không một máy ảnh, máy ghi âm. Thế mà với trí nhớ thông tuệ và tấm lòng nhân hậu, đồng cảm ông đã làm sống lại bao huyền thoại bao vùng đất mà bao giờ hình ảnh người lính cũng là trung tâm. Ông là người đa tình, đa cảm. Ông nói:“Khi có dấu hiệu mệt mỏi ta thường ngoái lại gọi tên một người lính, một người tình. Hai người này chứ không phải ai khác đã cổ vũ ta, nâng sức ta bay tiếp”.
Có một bài thơ khá hay của ông đó là “Cô Tấm ở trong nhà” viết tặng cô Vũ Thị Tỵ - vợ đầu của ông. Cô Giáng Hương kể: Lúc cuối đời khi trí nhớ do tai biến đã xóa mờ bao ký ức lẫn lộn thì ông vẫn còn rành mạch nhớ được bài thơ “Cô Tấm ở trong nhà” viết thật bình dị khác với phong cách thơ nhiều tìm tòi có lúc hơi “điệu đà” của ông. Cũng như bài thơ “Trăng lên” một trong những bài thơ hay viết về Bác Hồ bằng thể thơ 5 chữ khá hiếm hoi trong hành trang thơ Phạm Ngọc Cảnh thật xúc động sâu sắc với một niềm thành kính thiết tha. Hình ảnh vầng trăng xuyên suốt bài thơ vừa hiện thực vừa lung linh huyền ảo: “Trong lăng Bác chợp nghỉ – Như sau mỗi việc làm – Trăng ơi trăng biết thế - Trăng bước nhẹ nhàng chăng” thật cao quý mà gần gũi luôn tỏa sáng cho mỗi cuộc đời. Nhạc sĩ Thuận Yến là bạn thân của ông từ khi hai người còn ở đoàn văn công quân khu Bình Trị Thiên đã phổ nhạc chắp cánh thành “Vầng trăng Ba Đình”.
Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh là người phát hiện nhiều tác giả trẻ, những bài thơ hay. Chú kể có lần về Hải Phòng đến thăm nhà thơ Thanh Tùng, khi ra ga tàu về Hà Nội ông còn kịp quay lại để lấy chùm thơ ba bài về đăng trên tạp chí VNQĐ của Thanh Tùng trong đó có bài “Thời hoa đỏ”. Đây là bài thơ khó in thời bấy giờ, và chùm thơ đó được tặng thưởng thơ hay trong năm. Nhạc sĩ Đoàn Bổng đã phổ nhạc “Thời hoa đỏ” thành một ca khúc tình yêu với bao cung bậc nội tâm giằng xé để trả lại nguyên vẹn vẻ đẹp.
Những ngày này các báo in và đặc biệt báo mạng đăng nhiều tin về ông. Blog Quê choa của nhà văn Nguyễn Quang Lập được rất nhiều người truy cập đưa tin: “Nhà Thơ Phạm Ngọc Cảnh về trời” Ông đã về với Thánh Gióng như trong “Lý Ngựa Ô hai vùng đất” như ông đã từng tiên cảm: “Hay làng em ở ven sông – Mắt tình tứ rủ nhau về hội Gióng – Mùi hương xông nụ cười đưa nhẹ bẩng – Ai chẳng ngỡ mình không bay trên mây – Ai chẳng tin mình đang rong ngựa sắt – Cả một vùng sông ai chẳng hát – Sao anh thương câu lý ngựa ô này”. Cũng như năm 1966 cách đây gần 50 năm trong bài thơ “Sư đoàn” nổi tiếng ông đã từng tiên đoán: “Lại có một ngày – Mọi cửa ô Sài Gòn hớn hở - Như Hà Nội đã từng – Ba mươi sáu đường hoa sóng đỏ - Phất rừng cờ thổi hồng ngọn gió”. Xin những dòng viết này như một nén tâm nhang gửi đến ông, nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh – Thành viên Hội đồng biên tập đầu tiên của tạp chí Hồng Lĩnh khi mới tách tỉnh – Và cao hơn hết, ông là một nhà thơ, và là một nhà thơ mặc áo lính trọn đời.
Hà Tĩnh, Ngày 25 tháng 10 năm 2014
Theo Hội nhà văn Việt Nam
|