Trưa ngày 10/7/1988, tàu HQ-11 Lữ đoàn 171 Vùng 2 Hải quân đang làm nhiệm vụ bảo vệ biển đảo khu vực đảo Đá Lớn - quần đảo Trường Sa đã cứu sống được 3 phi công Mỹ gặp nạn trên đường bay từ Singapore về căn cứ Subic (Philippines).
Không quản sóng to gió lớn, khó khăn gian khổ, cán bộ chiến sĩ tàu HQ-11 đã nhanh chóng tiếp cận cứu người bị nạn, đưa về tàu an toàn. Một lần nữa, tinh thần nhân ái của bộ đội hải quân lại ngời sáng, thắm tình quốc tế cao cả.
Tình người không biên giới
“Trong ký ức của những người đi biển, có lẽ tôi không thể nào quên được một sự kiện đáng nhớ trong đời, đó là lần cứu sống 3 sĩ quan phi công Mỹ bị tai nạn ở đảo Đá Lớn - quần đảo Trường Sa.
Với tôi, đó không chỉ là kỷ niệm sâu sắc nhất của đời lính biển, mà còn là niềm vui, niềm tự hào; vì mình đã cứu sống những người khách quốc tế đặc biệt giữa đại dương bao la”. Đó là tâm sự của thượng tá Hoàng Văn Thể - nguyên Thuyền trưởng tàu HQ11 - khi tôi hỏi kỷ niệm sâu sắc nhất về đời lính biển tại nhà riêng của ông.
Ông Thể kể: 11 giờ 15 phút trưa 10/7/1988, như thường lệ, cán bộ chiến sĩ tàu HQ-11 ăn cơm vừa xong, chuẩn bị nghỉ trưa thì bất chợt phát hiện tiếng máy bay gầm rú phía đông đảo Đá Lớn - cách 3 hải lý. Chỉ vài phút sau, chiếc máy bay dạng vận tải quân sự vụt tới lắc lư như có ý xin hạ cánh.
“Toàn tàu báo động chiến đấu khẩn cấp”- tiếng thuyền trưởng-đại uý Nguyễn Quang Tạo hô lớn từ cabin. Một hồi kẻng báo động chiến đấu vang lên từ phòng trực ban. Tất cả về vị trí chiến đấu.
Tàu HQ-11 và thuyền trưởng-thượng tá Hoàng Văn Thể. Ảnh Trần Mạnh Tuấn
Lúc này, chiếc máy bay loạng choạng về phía bắc đảo Đá Lớn, rồi đâm nhào xuống biển cách tàu 1 hải lý. Tất cả cán bộ chiến sĩ trên tàu chỉ kịp nhìn thấy một luồng sóng trắng xoá, rồi từ đó hiện lên một chiếc phao caosu, trên đó có 3 người.
Thuyền phó quân sự-đại uý Hoàng Văn Thể lệnh cho bộ đội hạ hai xuồng cứu sinh và trực tiếp chỉ huy một tiểu đội nhanh chóng cơ động về phía máy bay gặp nạn cứu người.
Giữa sóng to gió lớn, hai chiếc xuồng cứu sinh nhỏ xíu như nuốt vào lòng biển cứ chồm lên ngụp xuống. Quần áo cán bộ chiến sĩ ướt nhèm.
Khi tiếp cận, những người bị nạn vô cùng hoảng hốt. Xung quanh họ là một màu nước biển vàng chói. Thì ra họ đã kịp giật những chai thuốc phát tín hiệu cấp cứu lúc máy bay vừa chìm. Một phi công đang cầm bộ đàm liên lạc với người của họ.
Nêu cao tinh thần cảnh giác, thuyền phó quân sự Hoàng Văn Thể đã yêu cầu thu bộ đàm liên lạc và nói bằng tiếng Anh: “Chúng tôi là cán bộ chiến sĩ hải quân Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng cứu các bạn”. 3 phi công mừng rỡ lộ rõ trên khuôn mặt. Một phi công nữ nói và ra hiệu chị đang có thai trong bụng ba tháng, xin được cứu chị.
Chiếc xuồng cứu sinh nhỏ bé lại trồi sụt trong sóng gió, đưa 3 phi công lên tàu HQ-11 an toàn. Cán bộ chiến sĩ đã dành riêng căn phòng câu lạc bộ sĩ quan cho 3 phi công. Việc đầu tiên là khám sức khoẻ cho phi công nữ đang mang thai. Biết đứa con trong bụng còn sống, chị đã khóc. Tên chị là Stein Necker - nhân viên, còn hai người kia là Richard Kamaurer (chỉ huy tổ lái) và nhân viên Michael Rneel.
Ban chỉ huy tàu và trung uý máy trưởng Nguyễn Huy Tuấn trực tiếp làm việc với 3 phi công gặp nạn. Qua tiếp xúc, được biết họ là thành viên của đoàn bay CT-39-NALO192 thuộc Hải quân Mỹ (Hạm đội Thái Bình Dương). Hôm đó, họ đi làm nhiệm vụ từ Singapore đến căn cứ hải quân Subic (Philippines) thì gặp thời tiết xấu, máy bay không thể hạ cánh được, bèn bay vòng ra biển thì gặp nạn.
Trưa ấy, hơn trăm cán bộ chiến sĩ toàn tàu HQ-11 không ai chợp mắt. Họ mừng vì đã cứu được 3 phi công Mỹ an toàn.
Lá thư cảm ơn của chị Stein Necker hiện đang lưu giữ trong nhà truyền thống Lữ đoàn 171. Ảnh tác giả chụp lại từ tư liệu của Lữ đoàn 171.
Ngời sáng phẩm chất bộ đội Cụ Hồ
Vào thời điểm ấy, tàu HQ-11 đi làm nhiệm vụ trên biển xa đã 73 ngày. Lương thực thực phẩm, rau xanh, nước ngọt đã cạn. Giữa biển khơi bao la nắng và gió, hơn 100 cán bộ chiến sĩ đã phải chắt chiu chia nhau từng ca nước ngọt, nhường nhau từng cọng rau xanh, nhưng quyết không để 3 phi công thiếu thốn.
Thuyền phó quân sự Hoàng Văn Thể đã phát động phong trào tiết kiệm: “Mỗi người nhịn tắm 7 ngày để dành nước ngọt cho 3 phi công”. Thấy các bạn không ăn được cơm, ban chỉ huy tàu quyết định mở kho lương thực dự trữ, lấy mì tôm và sữa hộp đặc cho họ.
Vận động cán bộ chiến sĩ nhường thuốc lá cho bạn, còn tất cả anh em hút thuốc rê, thuốc lào. Mọi nơi ăn, chon nghỉ của bạn được cán bộ chiến sĩ tàu HQ11 chăm sóc chu đáo. Họ đã không còn rụt rè nữa. Có người đã khe khẽ hát, đi lại trên lan can hút thuốc nhả khói khắp tàu.
Sau khi liên lạc với Hoa Kỳ theo đường ngoại giao, sáng 13/7/1988, 3 phi công gặp nạn được tàu của Hải đoàn 128 hải quân đón về đất liền.
Cuộc chia tay có một không hai diễn ra ngay trên boong tàu. Giữa bộn bề sóng nước, một bên là những vị khách quốc tế gặp nạn, một bên là ân nhân - các chiến sĩ hải quân. Ai cũng xúc động chẳng nói nên lời. Những tấm ảnh chụp vội vã làm kỷ niệm như thay lời ghi nhớ công ơn của các chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam đã cứu họ.
Xúc động chen lẫn niềm vui, anh phi công Richard Kamaurer (chỉ huy tổ lái) nói: “Xin cảm ơn bộ đội Việt Nam. Cảm ơn các bạn. Nếu không có các bạn, chúng tôi đã bị đắm chìm dưới đại dương bao la này”.
Còn chị Stein Necker đã bật khóc. Cô xin mảnh giấy, mượn bút viết vội lá thư như thay lời cảm ơn gửi lại tàu, bức thư có đoạn: “Cảm ơn các bạn đã cứu chúng tôi từ lòng biển cả. Lòng mến khách của các bạn thật tuyệt vời. Cảm ơn các bạn rất nhiều và chắc chắn chúng ta sẽ gặp lại nhau”.
Bức thư của người nữ phi công Mỹ viết vội ngày nào đã thành kỷ vật thiêng liêng đặt khiêm tốn trong phòng truyền thống của Lữ đoàn 171 hải quân. Mỗi lần nhớ đến, như nhắc lại một kỷ niệm đẹp về lòng nhân ái của những người lính bộ đội Cụ Hồ.
Được biết, đứa con trai của người nữ phi công Stein Necker được sinh ra trên đất Mỹ và được chị đặt tên con là HQ11- tên con tàu với những người lính hải quân dũng cảm đầy lòng nhân ái, đã cứu mẹ con chị thoát nạn giữa đại dương bao la.
Tàu HQ-11 huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Ảnh: Trần Mạnh Tuấn.
Ngược dòng lịch sử
3 quân nhân phi công Mỹ được cán bộ chiến sĩ tàu HQ-11 Lữ đoàn 171 Vùng 2 Hải quân cứu sống giữa đại dương bao la ngày 10 tháng 7 năm 1988, không phải là những quân nhân ngoại quốc đầu tiên được bộ đội Việt Nam cứu giúp.
Ngược dòng lịch sử năm 1945, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn quyết định. Ở Việt Nam, sau khi giành được độc lập, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta bước vào cuộc chiến đấu mới. 6 tỉnh biên giới phía bắc gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên được chọn làm căn cứ địa vững chắc, gọi chung là khu Việt Bắc. Du kích và bộ đội Việt Minh của căn cứ chiến khu Việt Bắc đã cứu sống một phi công Mỹ tên là Shaw nhảy dù lạc xuống đây.
Shaw thuộc đơn vị OSS (office Strategy Service- tiền thân của Cục Tình báo Trung ương Mỹ - CIA). Trong chuyến bay trinh sát, máy bay của Shaw bị quân Nhật bắn rơi, buộc Shaw phải nhảy dù và rơi vào tay du kích và bộ đội của ta.
Tin phi công Mỹ được du kích và bộ đội Việt Minh cứu sống, Bác Hồ đã chỉ thị cho bộ đội đối xử tử tế với Shaw, đưa Shaw vượt ra khỏi sự truy lùng gắt gao của quân Nhật, trao trả phi công cho đồng minh.
Cảm kích trước nghĩa cử cao đẹp ấy, tướng LC.Chenault giao cho Tập đoàn không quân Mỹ tại Đông Dương gặp Bác và đề nghị bộ đội Việt Minh tiếp cục cứu phi công Mỹ khi bị quân Nhật bắn rơi. Ngược lại, không quân Mỹ sẽ giúp bộ đội Việt Minh huấn luyện quân sự và hoạt động tình báo…
43 năm sau, một sự lặp lại diệu kỳ: Phi công Mỹ lại được những người lính hải quân Việt Nam cứu sống. Chỉ có điều lần này không diễn ra ở núi rừng hiểm trở, mà ở giữa đại dương bao la - nơi quần đảo Trường Sa bộn bề sóng nước.
Hành động quả cảm của bộ đội Việt Minh cứu phi công năm 1945, lòng nhân ái của cán bộ chiến sĩ tàu HQ-11 cứu sống 3 phi công Mỹ giữa biển khơi ngày 10 tháng 7 năm 1988 không chỉ thể hiện tình nhân loại cao cả, không đối xử tàn bạo, không phân biệt chiến tuyến, màu da, dòng máu. Chỉ có sự ngời sáng phẩm chất người lính hải quân - bộ đội Cụ Hồ.
Nói về sự kiện cứu phi công Mỹ ngày ấy, thượng tá Thể vui cười “Nhờ bám biển mà chúng tôi đã cứu được các phi công. Sự kiện ấy luôn ghi nhớ trong lòng tôi và không bao giờ quên được”.
(Ghi theo lời kể của thượng tá Hoàng Văn Thể - nguyên Thuyền trưởng tàu HQ-11 anh hùng)
Theo Trần Mạnh Tuấn
Lao động
Theo dân trí
|