Tôi biết Đại tá Nguyễn Thị Bích Thuận, nguyên Phó Cục trưởng Cục cảnh vệ là người được vinh dự dịch bức điện mật của Bác chúc Tết Trung đoàn Thủ đô xuân Đinh Hợi, nhưng còn câu chuyện bà tham gia phụ nữ cứu quốc Hoàng Diệu trong cách mạng tháng Tám thì đến hôm nay mới có dịp được nghe khi bà mở “kho truyện cổ”.
Lấy vải phủ bàn thờ khâu cờ đỏ sao vàng
Bà Bích Thuận sinh năm 1922 ở làng Lãng Yên, phía nam Hà Nội, giờ là phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng. Học đến trung học ở trường nữ sinh Đồng Khánh, sau này bà đi dạy học rồi tìm đến với cách mạng và tham gia hội phụ nữ cứu quốc Hoàng Diệu.
Tháng 7-1945, Hà Nội sục sôi trong cao trào tiền khởi nghĩa. Đồng chí Trần Ngọc Minh, cán bộ Ban công vận Thành ủy giao cho đồng chí Bùi Hồng Việt, Bí thư chi bộ công nhân cứu quốc phố Lò Đúc nhiệm vụ tổ chức treo cờ trên đỉnh Tháp Rùa đúng vào ngày chính phủ Trần Trọng Kim treo cờ quẻ ly. Bốn người trong tổ là đồng chí Hoàng Hải, Bùi Đình Lợi, Hoàng Duy Thành, Lê Hoàng do đồng chí Hải làm tổ trưởng nhận nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc này. Nhưng kiếm vải đỏ ở đâu? May thay, đồng chí Lê Hoàng thân với em trai bà Bích Thuận là Nguyễn Văn Quý nên đã đến vận động bà may cờ. Bà Bích Thuận kể: “Tôi nhận lời anh Hoàng ngay. Sợ ra chợ mua vải đỏ dễ bị lộ, tôi suy nghĩ rồi quyết định giấu gia đình, sẽ khâu cờ bằng mảnh vải đỏ phủ trên bàn thờ gia tiên. Tôi tin khi cha tôi biết, chắc cũng sẽ đồng ý với việc tôi đang làm. Tôi bí mật cắt khổ vải khoảng 40x50cm để khâu cờ; phần vải còn lại, tôi đặt lại trên ngai thờ. Còn ngôi sao, do không tìm được vải vàng, nên chúng tôi phải sơn năm cánh sao vào vải đỏ. Lá cờ treo trên đỉnh Tháp Rùa đêm 1-7-1945 tung bay đến tận 10h sáng 2-7, bọn địch mới loay hoay gỡ xuống. Tôi thấy tự hào biết bao vì mình đã góp phần nhỏ bé vào sự kiện gây tiếng vang giữa trung tâm thành phố”.
Hai lần gặp Bác
Chiều 19-8, hoà trong sóng người đi giành chính quyền, bà Bích Thuận từ quảng trường Nhà hát Lớn đi theo mũi chiếm Trại bảo an binh (ở Hàng Bài). Ngay trong chiều ấy, bà được lệnh đưa mấy chị em phụ nữ cứu quốc đến Ty liêm phóng nhận nhiệm vụ nuôi quân. Sau một thời gian ngắn, đồng chí Trần Quốc Hoàn điều động bà trở lại làm điện thoại viên ở Sở Bưu điện Bờ Hồ để quản lý hơn 40 chị em nữ ở đây, đảm bảo liên lạc thông suốt của Trung ương Đảng và chính phủ. Tháng 3-1946, bà được kết nạp vào Đảng.
Bà kể lại hai lần gặp Bác đều để lại kỷ niệm sâu sắc: “Lần thứ nhất vào dịp Tết Bính Tuất, tôi đi cùng với đoàn cán bộ của thành phố vào chúc Tết Bác ở Bắc bộ phủ. Bác rất gầy, chỉ có đôi mắt sáng rực, nhìn chúng tôi hiền từ. Tôi nhìn Bác chăm chú, nhớ ra đã thấy ảnh Bác in trong sách Parti communiste Indochinois. Sách do Sở mật thám Pháp in để nghiên cứu và tìm hiểu Đảng cộng sản Đông Dương; tình cờ sau ngày Nhật đảo chính Pháp, có một người bạn cho tôi xem, nhưng lúc ấy, tôi đâu biết đó là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Tết Bính Tuất là một dấu mốc sâu sắc trong cuộc đời tôi, khi tôi được chúc Tết Người.
Lần thứ hai, tháng 3-1946, Bác bất ngờ đến thăm Sở Bưu điện Bờ Hồ. Người đến ngay đầu giờ làm việc, theo sau là ông chủ sự Sở Nguyễn Văn Hùng và hai đồng chí Hoàng Hữu Kháng, Vũ Kỳ. Tôi ngồi ở bảng 3 gần cửa ra vào nên thấy ngay Bác đến, nhưng không dám mạnh dạn đứng dậy chào Bác; cứ nhìn Người mà tay vẫn phải nối đường dây. Bác dừng ở đầu phòng, lặng lẽ quan sát các điện thoại viên thao tác nhịp nhàng, chính xác, đảm bảo mạng thông tin từ Thủ đô Hà Nội đi toàn quốc. Bác không muốn sự có mặt của Bác ảnh hưởng đến công việc đang chạy đều của chúng tôi. Chính sự tôn trọng của Bác đã khiến tôi và chị em cảm động, tin tưởng, khâm phục Người. Sau đó, tôi được biết Bác đã nói chuyện với một số viên chức của Sở, động viên anh em khắc phục khó khăn, làm việc đúng giờ, thực hiện cần kiệm, xây dựng chính quyền cách mạng.
Tháng 11-1946, bà Bích Thuận được điều động về cơ quan Thường vụ Xứ uỷ Bắc kỳ do đồng chí Trần Quốc Hoàn phụ trách để làm nhiệm vụ mã hoá và dịch mã các bức điện mật của Trung ương. Chính công việc này đã cho bà vinh dự lớn lao: dịch bức mật mã của Bác chúc Tết Trung đoàn Thủ đô xuân Đinh Hợi (1947). Mỗi dòng thư Bác không chỉ là tình cảm ấm áp, sự quan tâm sâu sắc, động viên thăm hỏi các chiến sĩ Trung đoàn mà còn thể hiện quyết tâm kháng chiến của toàn dân tộc. Dòng chữ nổi tiếng trong thư đã trở thành biểu tượng thiêng liêng, cao quý, tự hào của Hà Nội anh hùng trong 60 ngày khói lửa chống thực dân Pháp xâm lược: “Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Bà nói: “Tôi đã dịch bức điện của Bác trong niềm xúc động trào dâng”.
Theo Phạm Kim Thanh
An ninh Thủ đô