Người ta đồn đại và tin rằng những kho báu của  vua Chàm từng một thời ẩn sâu trong lòng đất, được trấn giữ bởi những  trinh nữ bị táng sống để bảo vệ bảo vật của vua.
                        
                        Trong  một thời gian dài, chuyện về những kho báu của vua Chàm được người đời  thêu dệt thành những huyền thoại. Người ta đồn đại và tin rằng những kho  báu ấy từng một thời ẩn sâu trong lòng đất, được trấn giữ bởi những  trinh nữ bị táng sống để bảo vệ bảo vật của vua. Và cũng có lời đồn,  những kho bảo vật ấy đã biến mất theo dấu vết của thời gian, chiến tranh  và những cuộc tàn phá, cướp bóc thuở lịch sử nhuốm đầy "mùi" binh đao,  khói lửa.
                        
                        
                            
                                
                                    | 
  Lễ hội Kate của đồng bào dân tộc Chăm ở Ninh Thuận (Ảnh: Ninh Thuận) | 
                            
                        
                        
                        Bao đời qua, chuyện về các vị vua Chàm cùng những kho báu đồ sộ với  những chiếc rương bằng gỗ quý trĩu nặng vô số vật dụng, đồ trang sức,  triều phục, biểu tượng quyền lực (kiếm và ấn triện) bằng vàng, bạc, ngọc  ngà... luôn kích thích sự hiếu kỳ của người đời cũng như thu hút sự  quan tâm của xã hội.
                        Người ta không thể không quan tâm, không thể không hiếu kỳ khi thi  thoảng lại nở rộ thông tin có người tìm thấy nải chuối bằng vàng, con  ngựa bằng vàng, pho tượng bằng vàng... tại ngôi cổ mộ, cánh đồng hay khu  rẫy nào đó.
                        Ông Hồ Khải, sống tại khu phố chuyên buôn đồ giả cổ Lê Công Kiều  (quận 1, TP HCM) là người rất quan tâm đến thông tin về những kho báu  Chàm. Hơn 50 năm sưu tầm, góp nhặt, trao đổi và mua bán, ông Khải đang  nắm trong tay khối lượng cổ vật khổng lồ với hàng ngàn món.
                        Giữa la liệt kiếm cổ, ấn triện của các vương triều (chủ yếu triều Tây  Sơn và triều Nguyễn), tượng cổ, đồ sành sứ trăm năm, các bảng sắc  phong, các bức hoành phi câu đối sơn son thếp vàng... được ông Khải nâng  niu, còn có những cổ vật liên quan đến các triều đại vua Chàm.
                        "Vương triều Chàm là một vương triều huyền bí, tài hoa trong việc chế  tác những vật dụng sinh hoạt, trang sức tinh tế", ông Khải không ngớt  lời khen các món "cổ vật Chàm" mình đang sở hữu.
                        Sau khi khoe nhiều bức tượng cổ, hộp trang sức bằng bạc của phụ nữ  Chàm, cây kiếm lưỡi lượn sóng chuôi đồng thân thép xám lạnh huyền bí,  ông tâm sự: "Điều đáng tiếc là tôi chỉ có được những món đồ dùng trong  tùy táng, thờ cúng thần linh mà thôi. Tôi rất mong ước kiếm được những  món đồ là vật báu của các triều vua Chàm để lại, khổ nỗi vì chưa có  duyên nên chưa tuyển được món nào".
                        Phần lớn cổ vật Chàm mà ông Khải sưu tập được có nguồn gốc ở Quảng  Nam, Bình Định, Khánh Hòa và đặc biệt tại Ninh Thuận, nơi mà theo ông  "từng là giang sơn cuối cùng của các vua chúa Chiêm Thành".
                        Hàng trăm lần đi đi về về tuyến TP HCM - Ninh Thuận và ngược lại để  săn tìm "cổ vật Chiêm Thành" mà dân gian vẫn quen gọi "Chàm", đi nhiều,  ăn dầm nằm dề nơi núi rừng để lần theo những nguồn thông tin về các kho  báu Chàm cũng như những người tìm được cổ vật Chàm để hỏi mua, bán chác,  trao đổi... nên nói ông Khải là "tự điển sống" về cổ vật Chàm, cũng  không quá lời.
                        Do ham đọc, học hỏi, tìm hiểu thực tế mà ông Khải có khẳng định hoàn  toàn trái ngược với những gì thiên hạ đồn đoán về những kho báu Chàm  được lưu giữ kỹ lưỡng những báu vật trong kho báu truyền đời từ các vua  chúa, và chỉ đưa ra cúng quẩy vào lễ hội lớn rồi lại cất giấu rất kỹ,  không cho bất kỳ ai xem.
                        Theo ông Khải những đồn đại đó vừa đúng lại vừa sai. "Đúng là chỉ khi  tiến hành lễ Katê người ta mới được dịp chiêm ngưỡng những báu vật của  vua chúa Chàm. Nhưng những báu vật này không phải do người Chàm lưu giữ  mà là do người Raglai ở huyện miền núi Ninh Sơn, bảo quản. Khi có lễ hội  họ mang xuống dâng cúng và kết thúc lễ thì lại mang báu vật về núi".
                        Theo tục lệ cổ truyền, đến dịp lễ Katê của người Chăm thì các làng  Raglai (huyện Ninh Sơn, Ninh Phước) cử người rời núi cao mang theo các  báu vật mà vua chúa Chàm ngày trước gửi gắm xuống các tháp để cùng dự lễ  rồi mang trở về núi cất giữ. Báu vật mà họ mang theo gồm áo giáp, áo  bằng vàng, mão bằng vàng, bảo kiếm, sắc phong của các triều vua Nguyễn  cho vua Chàm, và các đồ ngự dụng của vua Chàm...
                        Những tư liệu nghiên cứu ghi rằng, theo thời gian, sau năm 1975, vì  nhiều lý do mà các báu vật kể trên không còn nữa nhưng người Raglai vẫn  theo lệ xưa mang những gì còn sót lại mà người Chàm xưa gửi gắm như ly  chén, sắc phong, áo vải đã cũ mục... xuống các đền tháp trao cho các  chức sắc Chăm hành lễ ở đền Pô Inư Nưgăr, tháp Pô Rômé, tháp Pô Klong  Garai.
                        Ngoài những báu vật còn sót lại, người Raglai khi xuống núi cũng mang  theo báu vật của chính mình, đó là những dàn mã la (nhạc cụ bằng đồng  giống cồng chiêng Tây Nguyên nhưng không có núm) hàng trăm năm tuổi và  tấu lên những âm thanh huyền bí để ngày hội Katê thêm phần long trọng.
                        Hơn 170 năm trước, các bảo vật Chàm vẫn do các thế hệ con cháu vua  Chàm giữ. Số phận lưu lạc của các bảo vật Chàm bắt đầu năm 1831, khi Lê  Văn Khôi (con nuôi của Tổng trấn Lê Văn Duyệt) nổi loạn ở thành Phiên An  (Gia Định), chống lại triều đình nhà Nguyễn, chiếm 3 tỉnh Phan Rang,  Phan Rí và Phan Thiết.
                        Sau khi dẹp được Lê Văn Khôi, biết được số đông con cháu vua Chàm  tích cực hợp tác với quân nổi loạn, vua Minh Mạng đã thẳng tay đàn áp.  Để tránh họa, một bộ phận người Chàm di cư sang Campuchia, số khác mang  theo các bảo vật của tổ tiên lên núi sống với người Churu và Raglai. Đến  đời Vua Thiệu Trị, lệnh đàn áp mới được hủy bỏ. Dầu vậy con cháu của  vua Chàm không mang di vật cha ông xuống núi mà gửi lại cho những bộ tộc  đã chở che cho mình lúc hoạn nạn.
                        Số báu vật mà con cháu của vua Chàm gửi cho người Churu (tỉnh Lâm  Đồng) và người Raglai rất nhiều, với cả ngàn bảo vật, di vật cung đình.  Nhưng do chiến tranh, loạn lạc và nạn săn lùng cổ vật mà người Churu hầu  như không còn lưu giữ được bao nhiêu bảo vật.
                        Số phận của hàng trăm món bảo vật của vua chúa Chàm (kho đựng đồ bạc,  y phục của vua và hoàng hậu, mâm thờ bằng bạc, vương miện bằng vàng...  được gửi người Churu khép lại vào giai đoạn 1968 - 1969 khi 3 ngôi đền  Sóp, Krayo và Sópmadronhay người Churu xây dựng để thờ các vua chúa Chàm  và lưu giữ kho báu đã bị máy bay Mỹ ném sập rồi đến lượt các toán quân  Mỹ ùa vào hôi của.
                        Sau gần 200 năm, những kho báu mà người Chàm trao gửi cho người  Raglai nay chỉ là con số khiêm tốn và được người Raglai lưu giữ qua  nhiều thế hệ. Từ đây, hình thành mỹ tục cứ đến lễ hội Katê hằng năm,  trước khi diễn ra ngày lễ chính (1/7 lịch Chăm), các làng Raglai giữ báu  vật của vua Chàm gửi gắm lại cử người đến trao báu vật cho các chức sắc  Chăm hành lễ, sau đó lại giữ nghiêm ngặt.
                        Khi di chuyển xuống đồng bằng để hành lễ với người Chăm, đoàn người  Raglai tập kết ở 3 địa điểm có tháp cổ linh thiêng được quy định sẵn gồm  tháp Pô Rômê, đền Pô Inư Nưgăr và tháp Pô Klong Garai.
                        Đến nay người Raglai vẫn cất công lưu giữ các báu vật mà vua chúa  Chàm ngày trước gửi lại, và người Chàm cũng không có ý định thu hồi là  vì giữa người Raglai và người Chàm có mối quan hệ mật thiết, gần gũi như  anh với em.
                        Chính vì sự gần gũi ấy mà khi gặp nạn, vua chúa Chàm đã tin cậy lên  núi cao sống với "người anh em" của mình. Và với bản chất thật thà lại  được sự gửi gắm kỳ vọng, bao năm qua người Raglai vẫn thủy chung, cố tâm  gìn giữ những báu vật, không có ý định chiếm hữu làm của riêng.
                        (Công an Nhân dân)