Trong quân đội ta, những vị tướng đều là những bậc thầy lãnh đạo, chỉ huy và đào tạo hàng ngàn sĩ quan, chiến sĩ cấp dưới. Nhưng để có thể trở thành những bậc thầy thực thụ, các vị tướng cũng đều cần có người thầy theo đúng nghĩa của từ này. Và có những người thầy không chỉ góp phần đào tạo một, hai mà còn nhiều vị tướng bậc thầy khác của quân đội. Người thầy ấy chính là đại tá Doãn Mậu Hòe và các học trò của ông gồm: Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Hoàng Văn Thái, Thượng tướng Song Hào, Trung tướng Lê Quang Đạo, Trung tướng Phạm Ngọc Mậu và Thiếu tướng Phạm Kiệt.
Những người học trò “đặc biệt”
Sau năm 1954, Hiệp định Genèrve được ký kết, thầy giáo- chiến sĩ Doãn Mậu Hòe tập kết ra Bắc và được cử đi học lớp “Bồi dưỡng giáo viên trợ lý văn hóa” của quân đội lúc bấy giờ. Sau đó ông được phân công cùng một số người khác dạy bổ túc văn hóa cho các đồng chí lãnh đạo ở cơ quan Tổng Cục chính trị, Hậu Cần, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng.
Ông Hòe nhớ lại, khi ấy, ông vừa tròn 25 tuổi chỉ mới mang cấp hàm thượng úy còn các học trò thì đã là các vị tướng lĩnh nổi tiếng, nên rất khó ăn nói mỗi khi đứng lớp. Day dứt mãi, cuối cùng ông cũng quyết định theo sự phân công của tổ chức, chuẩn bị giáo án để đến lớp nhận các học trò “đặc biệt” này. Ngày đầu đến nhận lớp, ông hồi hộp, lo lắng, nói không thành tiếng. Ông cùng một giáo viên nữa được giao trọng trách dạy các môn: Toán, Lý, Hóa…cho sáu vị tướng.
Buổi học đầu tiên diễn ra tại nhà Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ở số nhà 116 phố Lý Nam Đế, Hà Nội đã diễn ra không như những gì ông tưởng. Ông cho biết, tuy cả sáu học trò đều là tướng, là thủ trưởng của mình, nhưng vào giờ học, các vị ấy rất nghiêm túc, giữ đúng khuôn phép “thầy- trò”. Có những chỗ chưa hiểu, họ giơ tay phát biểu, hỏi ý kiến thầy chứ không hề e dè, ngại ngùng.
Sau buổi học ấy, ông Hòe phấn khởi, soạn giáo án, bài giảng cho các buổi học tiếp theo. Nhưng có một bất ngờ thú vị là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Thượng tướng Song Hào và Trung tướng Lê Quang Đạo được thầy Hòe dạy kiến thức chương trình Lý, Hóa cấp III, Đại tướng Hoàng Văn Thái và Trung tướng Phạm Ngọc Mậu học cấp II. Còn riêng Thiếu tướng Phạm Kiệt thì dạy chương trình cấp I.
Ông nghẹn ngào kể lại, Thiếu tướng Phạm Kiệt từng bị giặc Pháp bắt, đánh đập tù đày, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe nên học hay quên. Tướng Kiệt đề nghị thầy Hòe dạy cho ông, đừng phân các cô giáo dạy vì khi hỏi bài cũ mà mình không trả lời được thì xấu hổ lắm…
Hiểu hoàn cảnh của tướng Kiệt, thầy Doãn Mậu Hòe tận tình dạy tỉ mỉ, cái gì quên đều được ông gợi ý, để học trò nhớ lại một cách từ từ. Một lần kiểm tra bài cũ, biết Tướng Kiệt căng thẳng không nhớ bài nên thầy Hòe cho giải lao. Sau đó, ông tìm cách gợi ý giúp học trò nhớ lại bài cũ. Khi trả lời được tất cả các câu hỏi, ông mừng quá ôm chầm lấy thầy giáo vui sướng vỡ òa.
Ngay cả cách xưng hô thủ trưởng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã đề xuất ý kiến là giáo viên nên gọi học trò là anh, còn học trò gọi thầy giáo bằng “anh”. Ngoài giờ học thì xưng hô là đồng chí và thủ trưởng. Từ đó, thầy giáo Hòe đổi cách xưng hô và trở nên mạnh dạn hơn trong cách truyền thụ kiến thức cho các học trò “đặc biệt” này.
Trong sáu vị học trò “đặc biệt” của thầy Hòe, mỗi người để lại trong ông một ấn tượng, một kỷ niệm khó quên. ông Hòe cho biết, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, là một người thông minh, am hiểu các vấn đề văn hóa xã hội, đặc biệt là rất giỏi tiếng Pháp. Đại tướng có thể nói sành sỏi tiếng Pháp như tiếng Việt. Tướng Thanh tiếp thu bài giảng rất nhanh và nghiêm túc thực hiện các bài tập về nhà, dù việc quân, việc nước trong thời kỳ vừa chiến thắng quân Pháp xâm lược, miền Bắc bắt tay xây dựng Chủ nghĩa xã hội và chuẩn bị cho công cuộc thống nhất đất nước vô cùng bận rộn, nhưng Tướng Thanh vẫn đảm bảo chương trình học văn hóa.
Còn Tướng Song Hào lại có một tinh thần làm việc không biết mệt mỏi và rất có năng khiếu về môn vật lý nói chung và điện nói riêng. Trước khi đi học, hầu hết các mô hình điện dân dụng trong trường đều do Tướng Hào thiết kế và chỉ dẫn cách bắt điện. Tôi chỉ dạy anh Hào vẻn vẹn có hơn ba tháng môn Vật lý về điện thì anh đã thông thạo và sau đó thì vượt cả “thầy”.
Sau này, tuy mỗi người ở một cương vị công tác khác nhau, nhưng những về tình “thầy- trò” thưở nào chẳng thể nào phai nhạt trong tâm trí người lính già Doãn Mậu Hòe.
Lần tìm chân dung người thầy trong lửa đạn chiến tranh
Ông Doãn Mậu Hòe sinh ra và lớn lên ở mảnh đất nghèo huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình có cha và hai anh đều tham gia mặt trận Việt Minh chống Pháp, đuổi Nhật. Từ nhỏ ông có điều kiện được ăn học hết lớp Đệ tứ (tương đương trình độ lớp 12 hiện nay), vì thế dân làng thường nhờ ông dạy chữ cho con em mình. Có lẽ vì thế, sở thích làm thầy giáo của ông đã nảy mầm tự đấy.
Thầy giáo Doãn Mậu Hòe
Năm 1947, lúc vừa tròn 17 tuổi, ông tốt nghiệp lớp Đệ tứ và thi đậu vào trường Trung cấp sư phạm Quế Sơn với số điểm tuyệt đối. Sau đấy được hai năm đến đúng ngày khai giảng năm học 1949- 1950 thì thầy giáo tương lai nhận được lệnh nhập ngũ ra chiến trường. Thế là anh giáo làng Doãn Mậu Hòe đành “xếp bút nghiêng theo việc binh đao”, lên đường tòng quân đánh giặc và trở thành “Anh bộ đội cụ Hồ”.
Sau khi huấn luyện tại Phân hiệu II của Trường võ bị Trần Quốc Tuấn, anh tân binh Doãn Mậu Hòe được biên chế về đại đội 216, tiểu đoàn 50, trung đoàn 108, Quân khu V, chiến đấu tại chiến trường miền Trung, Tây nguyên. Cụ Doãn Mậu Hòe nhớ lại một trong những trận đánh đầu tiên ở đồn Công Long, tỉnh Kon Tum: “Hơn ba ngày vây đồn, hầu hết anh em đã mệt mỏi, đói khát. Nhưng với quyết tâm công hạ đồn Pháp để lập công trong đợt đầu ra quân nên các chiến sĩ quyết tâm tập trung hỏa lực diệt các điểm phòng ngự. Tôi cùng ba đồng chí nữa được lệnh nhận bộc phá vượt qua hàng dây thép gai để phá bốt có bố trí ổ châu mai. Cả ba xung phong băng qua lưới đạn của giặc, chạy nhanh về phía ổ châu mai thì một chiến sĩ bị trúng đạn hy sinh. Tôi và anh Chữ, người đồng đội của tôi tiếp cận được bốt, châm bộc phá ném vào trong nhưng do không kịp chạy ra ngoài nên anh Chữ bị thương nặng”.
Sau những năm tháng chiến đấu ác liệt với kẻ thù, ông Doãn Mậu Hòe xin đơn vị được đứng ra tổ chức các lớp học dã chiến từ bậc xóa mù cho đến hết lớp 9 (cấp II) ngay tại mặt trận. Thế mới hay, khát vọng làm thầy của ông chưa hề nguôi ngoai. Thời ấy, theo ông phần lớn bộ đội ta vì hoàn cảnh đất nước chiến tranh, loạn lạc nên học hành dở dang. Được đơn vị chấp thuận, ông Hòe tập hợp một số anh em có có trình độ văn hóa phụ giúp việc giảng dạy và chữa bài tập cho học viên. Tối tối, sau khi ngớt tiếng súng đạn, các chiến sĩ lại cắp sách vở đến nghe thầy Hòe giảng bài. Ròng rã hơn ba năm kể từ ngày mở lớp học, thầy Hòe đã xóa mù và nâng cao trình độ văn hóa cho gần 250 chiến sĩ trong tiểu đoàn.
Ông cho hay, ngày ấy cực khổ lắm, bút mực, phấn bảng…không có, phải dùng đất sét hoặc gạch đỏ thay phấn; nhiều khi lấy mảnh bom làm bảng đen, bãi cỏ làm lớp học, khó khăn là thế nhưng bộ đội ta ai cũng hăng hái và quyết tâm học tập. Câu chuyện ông nhớ lại cách đây nửa thế kỷ thật xúc động: “Hôm đó, đơn vị chúng tôi được lệnh đánh đồn Cửu An (Quảng Ngãi). Giữa lúc hai bên đang đánh nhau ác liệt, đạn vãi ra như mưa thì có một giọng tập đọc bài vỡ lòng cất lên “i, t (tờ) có móc cả hai/I ngắn có chấm, t (tờ) dài có ngang/e, ê, l (lờ) cũng một loài/ê đội nón chóp, l (lờ) dài thân hơn/o tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thời thêm râu”.
Nghe xong bài học thuộc lòng ấy, các chiến sĩ trong đơn vị cười vang, quên cả khó khăn, nguy hiểm giữa chiến trường đạn bom. Bài học vỡ lòng có vần của anh lính trẻ thưở nào không những đã nhanh chóng tỏa lan khắp các đơn vị trong toàn quân thời ấy, mà sau này ở nhiều lớp “Bình dân học vụ” khắp các xóm làng miền Bắc, bài học này cũng đã được nhiều học viên áp dụng./.
H.A
Theo Tạp chí Văn nghệ Quân đội