Cách phố Lạch Tray đông đúc vài phút chạy xe hoặc 10 phút đi bộ, miếu An Đà nằm ở đoạn cong duyên dáng của đường quanh hồ An Biên. Vẻ đẹp của ngôi miếu cổ không chỉ ở không gian thanh tịnh, kiến trúc, cảnh quan mà còn ở bề dày lịch sử nghìn năm.
ảnh minh họa
Khuôn viên miếu rộng rãi với diện tích gần 2 nghìn m2, bốn mùa cây lá xanh tươi.
Từ cổng miếu nhìn qua hồ bán nguyệt, ngôi miếu uy nghi và trầm mặc nhìn về hướng tây bắc, trông ra hồ An Biên. Miếu có mặt bằng kiến trúc chữ “Đinh”, gồm 3 gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Ngay sau miếu, một cây đại rất lớn, cao vượt cả mái ngôi miếu đang trổ đầy hoa.
Cây đại kỳ vĩ hơn 400 tuổi, đường kính gốc khoảng 1m, cao 15m, tán tỏa rộng gần 200m2, được công nhận Cây Di sản Việt Nam.
Theo nhà sử học Ngô Đăng Lợi, nguyên Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Hải Phòng, miếu An Đà có từ thời nữ tướng Lê Chân, thờ hai vị thánh mẫu được tôn làm thành hoàng làng. Một vị là tùy tướng của nữ tướng Lê Chân là “Nữ Minh thần Hiển linh” (dân gian không còn nhớ tên húy). Năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh đuổi đô hộ Đông Hán, bà theo nữ tướng Lê Chân giúp vua Trưng lập nhiều chiến công. Bà hy sinh trong trận chiến đấu và được an táng tại gò Cao, ấp Đà Cụ, nơi đặt miếu An Đà ngày nay.
Một vị là Hoàng phi Nguyễn Thị Kim, quê ở làng Tỳ Bà, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh, vợ vua Lê Chiêu Thống. Năm 1789, vua Quang Trung đại phá quân Thanh, Lê Chiêu Thống cùng người thân và tùy tùng chạy sang Trung Quốc, Hoàng phi ẩn náu, giữ kín tung tích suốt 15 năm. Năm 1804, được tin chồng và con trai qua đời, Hoàng phi uống thuốc độc tự tử. Tương truyền, Hoàng phi sau khi tuẫn tiết đã báo mộng cho dân Đà Cụ được thờ bà. Dân làng tạc tượng, thờ ở miếu và đình làng, thấy linh ứng rất thiêng.
Miếu thờ hai vị thánh mẫu được tôn làm thành hoàng làng
Bà Phạm Thị Bình (Ban Quản lý di tích miếu An Đà) cho biết, từ lâu, làng An Đà (nay là khu dân cư An Đà thuộc phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền) đã kết nghĩa với làng Tỳ Điện (xã Phú Hòa, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh) là quê hương của Hoàng phi Nguyễn Thị Kim. Những dịp lễ hội của làng, hai bên đều tổ chức đến thăm nhau. Đặc biệt, dịp lễ hội 12-10 âm lịch hằng năm, ngày thánh hóa của bà Hoàng phi, cán bộ xã, thôn, dòng họ Nguyễn Văn tại thôn Tỳ Điện, xã Phú Hòa đều về miếu An Đà giao lưu, dự tế.
Miếu An Đà còn có lễ hội vào dịp rằm tháng Giêng để truy tưởng tới vị nữ tùy tướng. Dịp này, có các trò chơi dân gian, vật, hát ca trù, giao lưu với các làng khác… Cả hai dịp lễ hội trên đều thu hút đông đảo người dân trong vùng, con cháu xa quê, du khách thập phương đến dâng hương tưởng niệm, cầu những điều tốt đẹp.
Sân miếu có bức tường dài đắp 7 bức phù điêu lớn, miêu tả sự nghiệp của hai vị thánh mẫu được thờ trong miếu.
Trải qua biến thiên của thời gian, miếu An Đà vẫn bảo tồn được nguyên vẹn một số hiện vật cổ xưa, văn bia, tập tục thể hiện rõ sắc thái bản địa. Nhân dân địa phương rất kính trọng, tự hào về miếu cổ An Đà, thành kính gọi miếu là Đền Hai Bà. Miếu đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp thành phố năm 2009