Old Bagan đẹp, đôi lúc trong ánh bình minh, tôi tưởng như nhìn thấy kim tự tháp trong bóng dáng một ngôi đền nào đó. Và trong lang thang, chân bỏng rát vì nắng hun mỗi sân đền đài, tôi chỉ nghe thấy tiếng chim, gió nhiệt đới khắc khổ thổi cát bỏng giãy.
ảnh minh họa
Khi xách valy đi Kenya, tôi chẳng nghĩ gì ngoài một trọng trách cháy bỏng đặt vào tay châu Phi. Thì đấy, châu Phi muốn làm sao thì làm, miễn là đến khi trở về, tôi lại có thể tiếp tục cuộc sống này. Tiếp tục một cách hớn hở!
Sáu tháng sau, tôi lại xách valy đi. Lần này là Myanmar, với một cái đầu rỗng không, một vết mổ ngang bụng, và nhất là chẳng mơ mộng gì. Tôi đã kìm giữ mình, để không đặt bất cứ nhiệm vụ nào đột xuất cho Myanmar nữa.
Ba ngày đầu tiên, tôi không nhớ Việt Nam, tôi cũng không mơ thấy Kenya như cách tôi lôi đất nước ấy ra để cấu véo mỗi lúc tuyệt vọng. Tôi chỉ chật vật sống với nhiệt độ 45 ban ngày, và 37 độ buổi chiều (các bạn Myanmar rất hớn với mức nhiệt này, thoả mãn giống hệt bọn mình hú hét khi có cơn giông và mưa rào đầu hạ). Ba ngày ấy, tôi trát kem chống nắng như quệt vôi lên tường, lớp này khô lại có một lớp mới, và quần quật đi về giữa Old Bagan và New Bagan.
Old Bagan trong ánh nắng.
Old Bagan đẹp mê mụ. Đôi lúc trong ánh bình minh, tôi tưởng như nhìn thấy kim tự tháp trong bóng dáng một ngôi đền nào đó. Và trong lang thang, chân bỏng rát vì nắng hun mỗi sân đền đài, tôi chỉ nghe thấy tiếng chim, gió nhiệt đới khắc khổ thổi cát bỏng giãy, mặc cho trong kia, những tượng Phật đẹp buốt lòng bị nhốt trong ngôi nhà của chính mình. Chúng tôi bảo nhau, có phải khi đêm xuống, những đền đài kia sẽ tỉnh giấc? Để trăm ngàn cái bóng quá khứ rủ nhau bước qua khoảng sân gạch hoặc cúi nhìn xuống đồng bằng từ độ cao kỳ vĩ của hàng trăm bậc lên xuống của ngàn năm? Khi ấy, họ nói gì với nhau nhỉ? Họ có hạnh phúc nhảy vũ điệu thanh thản? Hay họ lại chau mày ưu tư? Thời gian, có phải chỉ là những gạch nối dài công bằng, dù triệu năm, ngàn năm, trăm năm hay đây thôi, quá khứ và hiện tại chẳng khác gì nhau cả, cũng yêu và bội phản, cũng tàn tệ và tử tế.
Khi rời Bagan ra đi, lòng tôi có chút nhăn nhó. Cảm giác khi mình đã quen đường, quen nóng, cũng hồ hởi như ai khi nhìn nhiệt độ hạ xuống 37, cũng tấm tắc bảo nhau mát rồi, mát quá khi lếch thếch đi bộ ăn món cơm rang hạt điều và gà cary susu, mồ hôi lã chã xót cả mắt; rồi đột nhiên rời đi, chống chếnh rất điêu. Lại còn nao nao nhớ những anh chàng Myanmar thấp bé, da đen tấm tắc, ngồi lò dò giữa bóng đêm gảy guitar hoặc phóng xe vù vù, tay cầm đèn pin chứ nhất định không chịu bật đèn pha.
Trên chuyến xe bus đêm đến hồ Inle, chỉ có những trạm xăng là được thắp sáng. Đèn pha xe rọi mãi vào những trảng cát và cây khô cong bởi nắng. Đêm ấy tôi nhớ Kenya, nhớ rằng tôi cũng ngồi trong xe, ngắm những chàng trai da đen bóng nằm phơi nắng như thể chúng mình lao ra hồ Hoàn Kiếm ngắm gió heo may về trong thành phố. Đến chiều hôm sau, chúng tôi đạp xe về từ một vườn nho trên núi Đỏ (Red mountain). Tôi đã ngấm rượu vang, không nhớ tên gọi, chỉ nhớ là vang tím, thơm đến nỗi làm đầy hết những lỗ chân lông trên mũi mình. Gió lồng lộng qua những tán lá bồ đề cổ thụ. Trời đầy chớp hồng. Tôi chợt nhớ một buổi tối nào giữa hành trình Kenya cũng hào phóng gió và chớp như vậy, chúng tôi ngồi kề lưng với nhau nói chuyện tình yêu. Ngoài kia là safari hoang dại lộng lẫy, trong này là bia Kenya ngon lạ thường. Chúng tôi kể cho nhau nghe về tình yêu của mình. Tranh luận về các cách yêu. Rồi rút cuộc, chúng tôi im lặng. Tự thấy mình chưa biết yêu thực sự, chỉ là gá vào nhau, cập kênh một tý cũng tặc lưỡi gá vào, còn hơn là cô đơn. Nhận ra con người cô đơn đến thế nào. Cô đơn tuyệt đối ngay khi họ tưởng như phép cộng một con người, phép nhân hạnh phúc và tiền bạc, phép chia nỗi đau và phép trừ gian dối bội phản đã được tính toán bài bản.
Không thể có sai số.
Sai số thì chết.
Ngôi đền Shwezigon đẹp kỳ ảo, một trong những nơi thu hút du lịch nhât của Myanmar.
Nhưng mà... dù không muốn nghĩ lại, thì có phải sự thật là:
Chúng ta chỉ có phép trừ những trái tim tử tế. Phép cộng cô đơn và thất vọng. Phép nhân thờ ơ và ích kỷ. Phép chia những đốm sáng bé tý của tình yêu đích thực, thứ ánh sáng bé đến nỗi, khi bị chia nhỏ, nó không còn đủ sức thắp sáng cuộc đời mình?
Buổi tối ở Hồ Inle Myanmar sáu tháng sau, khi đạp xe ngược gió, tôi vừa soi đèn từ điện thoại cho cô em rạp lưng guồng chân đạp, vừa ngắm những dải chớp uy dũng kiêu kỳ dọc ngang bầu trời. Tôi tưởng tượng một trong những tia sét đấy bổ dọc người mình, thấy mình nhỏ bé quá, dù là dưới bầu trời nào.
Nhưng nếu mình không hớn hở, thì mình không thể đi tiếp dưới những bầu trời khác, trong sấm chớp giông bão hay nắng cháy da người. Tự nhiên, tôi thấy mình bắt đầu nghiện vẻ đẹp hoàn hảo của sự cô đơn, của những nghiền ngẫm về cuộc đời này sau mỗi chuyến đi, về đôi bàn tay sắp đặt ở trên cao kia, phải chăng đã vẽ cho mỗi chúng ta một bản đồ, mà từng chặng rẽ, nghỉ chân hay chạy điên cuồng, đều đã được chú thích tỉ mẩn? Sắp đặt thế mà sao ta vẫn muốn khác đi một tý?