Họ là những cư dân sống trên dãy núi Andes, dùng nước có nồng độ thạch tín cao nhưng vẫn sống khỏe mạnh. Theo một nhóm nghiên cứu nhận định thì đây là một dạng đột biến gen.
ngôi làng San Antonio de los Cobres
Một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học đã khiến không ít người ngạc nhiên khi họ phát hiện tro.ng suốt 11.000 năm qua, những cư dân bản địa sống trong ngôi làng San Antonio de los Cobres ở vị trí cao trên dãy núi Andes, cách mặt nước biển 4.000m đã uống nước nhiễm độc thạch tín. Và thật bất ngờ khi người dân ở đây toàn ‘Dị nhân uống thạch tín mà không chết'
Hàng ngày họ dùng nước có nồng độ thạch tín lớn hơn 20 lần so với mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Tuy nhiên điều kì lạ là trong suốt nhiều năm ấy, cư dân ở đây vẫn sống khỏe mạnh bình thường, không mắc bất kì loại bệnh nào liên quan đến vấn đề nhiễm độc từ thạch tín.
Những cư dân ở ngôi làng này có gì đặc biệt, họ là những “dị nhân”? Câu trả lời được Tiến sĩ Karin Broberg một nhà nghiên cứu y học môi trường thuộc Đại học Lunds (Thụy Điển) qua quá trình nghiên cứu những xác ướp 7.000 năm ờ khu vực này chỉ ra rằng, cách đây khoảng 7.000 - 10.000 năm, cư dân trong vùng đã trải qua một số biến đổi di truyền giúp mang lại sự đề kháng thạch tín tốt hơn.
Và kết quả là họ có thể hấp thu lượng thạch tín cao gấp 20 lần ngưỡng hiện được coi là an toàn. Tiến sĩ Broberg cho biết: “Thạch tín nằm ở tầng đá nền của núi lửa và một số địa điểm có nồng độ tập trung cao hơn. Thạch tín sau đó được giải phóng vào các dòng suối cung cấp nước uống cho người dân. Tuy nhiên, những người sống trong khu vực này tiếp xúc với thạch tín tương đối cao và có sự chuyển hóa chất hiệu quả, ít độc hại hơn”.
Để cụ thể hơn về sự chuyển hóa này, tiến sĩ Broberg và các cộng sự đã nghiên cứu hệ gen của 124 phụ nữ sống ở ngôi làng này. Họ cũng kiểm tra khả năng chuyển hóa thạch tín của những người này thông qua xem xét lượng nguyên tố á kim trong nước tiểu. Nhóm nghiên cứu đã nhận diện được một loạt đột biến then chốt trong các gen của những người bản địa dường như tạo cho họ khả năng chống chịu với việc phơi nhiễm hàm lượng thạch tín cao.
Đặc biệt, một gen có tên gọi AS3MT, vốn được cho là có tham gia quá trình biến đổi thạch tín có thể giúp cơ thể người chuyển hóa thạch tín về dạng ít độc hơn. ở người dân San Antonio de los Cobres gen này xuất hiện với tần suất cao hơn nhiều so với các nhóm dân cư sống tại Columbia và Peru. Đây chính là một ví dụ về sự thích nghi của con người trước chất độc môi trường.
Asen, hay còn gọi là thạch tín, là chất độc không màu, không vị. Chúng gây nôn mửa, co giật, dẫn tới hôn mê và tử vong nếu tiếp xúc ở nồng độ cao. Người tiếp xúc trong thời gian dài sẽ mắc các bệnh về gan, tim mạch, tiểu đường, tổn thương da, ung thư. Tới năm những năm 1930, thạch tín mới có thể được nhận biết nhờ phương pháp kiểm tra pháp y của một nhà hóa học tên là James March. Cho đến nay vẫn chưa có biện pháp chữa trị cho những người phơi nhiễm kinh niên với Asen.
Ảnh minh họa
Đã có nhiều cái chết mà nguyên nhân do chất độc này. Dưới thời Elizabeth Đệ nhất, một chất lấy từ thạch tín đã được dùng để làm phấn trang điểm mặt cho phụ nữ. Asen cũng từng được sử dụng để tạo ra khí lewisite độc hại trong Thế chiến thứ nhất, khiến các nạn nhân bị bỏng rộp trước khi chết. Thạch tín cũng từng được cho là nguyên nhân dẫn đến sự phát điên của Vua Anh George III và vị tướng lừng danh Pháp Napoleon Bonaparte.
Năm 2008, nhà chức trách Trung Quốc cũng xác nhận, vua Quang Tự (1871 - 1908) hay Thanh Đức Tông, người tiền nhiệm của vị hoàng đế cuối cùng của nước này, đã bị đầu độc bằng một liều thạch tín nặng. Ngoài ra, Vua Faisal I của Iraq từng được phát hiện có các triệu chứng nhiễm độc thạch tín trong khi ở Thụy Sỹ năm 1993. Và lãnh đạo phong trào độc lập Nam Mỹ Simon Bolivar từng được cho là đã mất mạng do việc nhiễm độc thạch tín mãn tính. Con ngựa đua Phar Lap thành công nhất Australia cũng từng được phát hiện chết sau khi bị đầu độc bằng một liều thạch tín nặng.
Sự miễn nhiễm tự đào thải chất độc thạch tín ra khỏi cơ thể, hoặc sự đột biến gen khiến cơ thể có thể chuyển hóa thạch tín về dạng ít độc hơn của những cư dân sống trong ngôi làng, trên núi Andes này đã khiến họ trở thành những “dị nhân”. Chính vị trí sinh sống cùng với sự đột biến về gen đã giúp những cư dân ở ngôi làng nhỏ có khả năng đề kháng với chất kịch độc này.