Khoa bảng xứ Nghệ trong Văn bia Văn Miếu Quốc Tử Giám
Nguyễn Đào Nguyên
Bên cạnh các văn bản đăng khoa lục, các bộ sử, gia phả các dòng họ nổi tiếng…hệ thống văn bia đề danh tiến sĩ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám là một nguồn tài liệu hết sức quý giá khi tìm hiểu truyền thống, thành tích khoa cử xứ Nghệ (Nghệ An, Hà Tĩnh) thời Lê sơ - Lê Trung Hưng.
Văn miếu là nơi ghi nhận, vinh danh thành tích cao nhất của trí thức Nho học xứ Nghệ trong các kỳ thi đại khoa (Thi Hội, thi Đình) được tổ chức tại kinh đô Thăng Long. Tại đây, trong hàng ngàn tiến sĩ được triều đình cho khắc đề bia, khoa bảng xứ Nghệ luôn nằm trong số ba hay bốn địa phương đứng đầu về số lượng cũng như thứ bậc (Bên cạnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội, Thanh Hóa) trong các kì thi.
Tám mươi hai bia văn miếu ghi danh sách những người đỗ đạt trong tám mươi hai kỳ thi, mở đầu từ năm Đại Bảo thứ 3 (1442) đến năm Chiêu Thống thứ 7(1779), và được cho dựng bia từ năm Hồng Đức thứ 27(1484) đến năm Chiêu Thống thứ 8(1780).
Trong 82 bia thì có tới 57 bia có tên người Nghệ An hoặc Hà Tĩnh đỗ (24 bia có ghi người Nghệ An, 23 bia với Hà Tĩnh, và trong 52 bia thì có đến 15 bia có Nghệ An và Hà Tĩnh cùng đỗ).
Trải hơn 300 năm, trong số 1304 Tiến sĩ được đề bia thì có 110 Tiến sĩ người Nghệ. Theo thống kê của Đinh Khắc Thuân1, dựa theo các tài liệu Đăng khoa lục, trong tổng số 2263 Tiến sĩ đỗ trong triều Lê sơ (1426-1527), Lê Trung hưng (1533-1778) và Mạc (1527-1592) thì có tới 142 người Nghệ đỗ. Như vậy số Tiến sĩ xứ Nghệ trong bia văn miếu còn lại đến ngày nay chiếm 77,5% (110/142) trong tổng số lượng người Nghệ đỗ. Loại trừ đi số bia bị mất hoặc chưa cho khắc bia, danh sách đỗ đại khoa của người Nghệ trên văn bia hiện còn về cơ bản là phản ánh đúng đội ngũ đông đảo khoa bảng Nghệ trong các thế kỷ XVI-XVIII.
Nhìn chung lác đác mới có một số bia không ghi người Nghệ đỗ. Tuy nhiên có một giai đoạn khá đặc biệt khi khoa cử xứ Nghệ “mất trắng” trong tám kì thi liên tục các năm 1595, 1598, 1602, 1604, 1607, 1612, 1613, 1616 (Hiện tượng này không thấy trên văn bia văn miếu Huế. Thời Nguyễn khoa cử Nghệ nếu bị mất mùa thì chỉ gián đoạn tối đa một mùa). Trong các năm này, tên một người Nghệ duy nhất được nhắc trên văn bia, nhưng không phải với tư cách người đỗ mà là với tư cách giám thí: Lại bộ Tả thị lang Ngô Trí Hòa, Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân năm Quang Hưng 15 (1592) (ông làm giám thí trong ba kỳ thi 1612, 1613, 1616).
Ngoại trừ hiện tượng trên đây, còn lại phần lớn cứ đều đặn một mùa đại khoa đều có tên người Nghệ trên văn bia. Trong 57 bia có Tiến sĩ thì có tới 31 bia có ít nhất hai người Nghệ đỗ, còn lại 24 bia có một người Nghệ đỗ. Trong 110 Tiến sĩ thì có 8 người đỗ Đệ nhất giáp, 32 người đỗ Đệ nhị giáp, 70 người đố Đệ tam giáp1. Tám người đỗ Đệ nhất giáp là:
- Cao Quýnh: huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ khoa thi Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6 (1475)
- Đinh Bạt Tụy: xã Bùi Khổng, huyện Hưng Nguyên. Đệ nhất giáp chế khoa2 xuất thân khoa thi Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình thứ 6 (1554)
- Phan Tất Thông: xã Hạ Thành, huyện Đông Thành. Cùng khoa với Đinh Bạt Tụy.
- Dương Trí Dụng: xã Bạt Trạc, huyện Thiên Lộc. Đệ nhất giáp chế khoa xuất thân khoa thi Ất Sửu niên hiệu Chính Trị thứ 8 (1565).
- Nguyễn Bật Lương: xã Cương Giản, huyện Nghi Xuân. Đệ nhất giap Chế khoa xuất thân khoa thi Đinh Sửu niên hiệu Gia Thái thứ 5 (1577)
- Lê Phúc Nhạc: xã Lạc Xuyên, huyện Kỳ Hoa. Đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân cùng khoa Nguyễn Bật Lương.
- Phan Cảnh: xã Lai Thạch, huyện La Sơn. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh khoa thi Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 (1743).
- Nguyễn Huy Oánh: xã Lai Thạch, huyện La Sơn. Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 (1748).
Trong tám người này thì Phan Cảnh và Nguyễn Huy Oánh là hai Đình nguyên đỗ ở hàng Đệ nhất giáp. Kỳ thi năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) Phan Cảnh đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa), cả nước lúc ấy chỉ có Phan Cảnh đỗ Đệ nhất giáp. Nguyễn Huy Oánh cũng tương tự, kỳ thi năm Cảnh Hưng thứ 9 (1752) ông đỗ đầu trúng Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh. Có nhiều khoa thi triều đình không lấy Đệ nhất giáp, thậm chí có lúc không lấy cả Đệ nhị giáp, chỉ lấy Đệ tam giáp. Trong các khoa thi đó thường các Tiến sĩ Nghệ vẫn nằm trong danh sách đầu bảng. Chẳng hạn kỳ thi năm Vĩnh Hựu thứ hai (1738) triều đình không lấy Đệ nhất giáp, Lê Sĩ Bàng (xã Nội Thiên Lộc, huyện Thiên Lộc) đỗ Đình nguyên, chỉ một mình ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Khoa thi năm Vĩnh Hựu thứ năm (1739) triều đình cũng không chọn Đệ nhất giáp, Vũ Diễm (xã Thổ Vượng, huyện Thiên Lộc) đỗ đầu trúng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Các năm triều đình không chọn Đệ nhất giáp, nhiều trường hợp Tiến sĩ Nghệ nằm trong số 2 đến 5 người đỗ đầu ở hàng Đệ nhị giáp hoặc Đệ tam giáp. Chẳng hạn kỳ thi năm Quang Hưng thứ ba (1570) Nguyễn Văn Giai (xã Phù Lưu Trường, huyện Thiên Lộc) là một trong bốn người trúng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Kỳ thi năm Quang Hưng 15 (1592) Ngô Trí Hòa là một trong hai người trúng Đệ nhị giáp. Kỳ thi năm Kỷ Hợi (1779) Phạm Nguyễn Du là một trong hai người đỗ Đệ nhị giáp. Kỳ thi năm Cảnh Hưng 21 (1760) triều đình chỉ lấy Đệ tam giáp, Nguyễn Khản (xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân) là một trong 5 người được chọn đỗ.
Có những kỳ thi đặc biệt khi Tiến sĩ Nghệ chiếm số lượng áp đảo so với các địa phương khác. Kỳ thi Chế khoa năm Gia Thái thứ 5 (1577) 4 trên 5 Tiến sĩ được cho khắc bia đều là 4 người Hà Tĩnh: Nguyễn Bật Lương, Lê Phúc Nhạc (Đệ nhất giáp), Hồ Bỉnh Quốc, Nguyễn Hoành Từ (Đệ nhị giáp). Kỳ thi năm Quang Hưng thứ 6 (1583) không lấy Đệ nhất giáp, 3 trên 4 người chọn đỗ đều là người Nghệ: Nguyễn Phong, Trần Phúc Hựu (Hà Tĩnh, Đệ nhị giáp), Nguyễn Văn Thông (Nghệ An, Đệ tam giáp). Kỳ thi năm Quang Hưng thứ 15 (1592) không lấy Đệ nhấp giáp, 2 trên 3 người đỗ đều là người Nghệ An. Điều đặc biệt có một không hai trong kì thi này là cả hai cha con (xã Lý Trai, huyện Đông Thành) cùng đỗ một khoa, con cao hơn cha một bậc: Ngô Trí Hòa, con, 28 tuổi, đỗ Đệ nhị giáp; Ngô Trí Tri, cha, 56 tuổi, đỗ Đệ tam giáp. Sự kiện này rất nổi tiếng vào đương thời, vua Lê Thế Tôn đã tặng bức trướng có 10 chữ vàng cho hai cha con về vinh quy bái tổ “khoa danh thiên hạ hữu, phụ tử thế gian vô” (Đậu đại khoa thì có nhiều người nhưng hai cha con đậu cùng khoa thì chưa thấy bao giờ). Bài ký đề tên Tiến sĩ khoa thi đó đã ghi lại hiện tượng này như một biểu tượng của triều đại thịnh trị, thanh bình: “Ai nấy đều lấy làm sung sướng được trông thấy cảnh đời thái bình, dưới triều vua thánh, có cha con cùng đỗ một khoa thật là thịnh hội và văn minh vậy”.
Cùng một số địa phương có truyên thống hiếu học, khoa bảng Nghệ thường chiếm một tỷ lệ cao. Kỳ thi năm Quang Thuận thứ 7 (1484): 5 người Nghệ trên tổng 27, Hồng Đức thứ 9 (1478) 5/62, Cảnh Thống thứ 5 (1562) 6/61, Hồng Thuận thứ 3 (1511) 4/47, Thuận Bình thứ 6 (1554) 5/13, Quang Hưng thứ 3 (1570) 2/6, Phúc Thái thứ nhất (1643) 2/9, Khánh Đức thứ 2 (1650) 2/8, Khánh Đức thứ 4 (1652) 3/9, Cảnh Trị thứ 2 (1663) 3/13, Vĩnh Trị thứ 5 (1680) 3/19, Chính Hòa thứ 21 (1700) 3/19, Vĩnh Thịnh thứ 8 (1712) 3/17, Long Đức thứ 2 (1733) 4/18, Kỷ Hợi (1779) 3/15.
Các địa phương xứ Nghệ có truyền thống đào tạo Nho học và thi cử đại khoa thường vẫn có con em đại diện trúng Tiến sĩ trong mỗi mùa thi. Các huyện được khắc tên trên bia đá tại Thăng Long trở nên rất quen thuộc trong mỗi kỳ có người Nghệ trúng tuyển. Đứng đầu số lượng Tiến sĩ được khắc bia là huyện Thiên Lộc (Huyện Can Lộc, Hà Tĩnh ngày nay) với 18 người, tiếp sau là Đông Thành (Yên Thành và Diễn Châu, Nghệ An ngày nay) với 15 người, La Sơn (Đức Thọ, Hà Tĩnh ngày nay) 13 người, Thanh Chương 11 người, Nghi Xuân 9 người, Thạch Hà 9 người, Kỳ Hoa (Kỳ Anh và Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh ngày nay) 5 người, Quỳnh Lưu 5 người…Có những xã nổi tiếng truyền thống khoa danh cũng thường được bia đá đề tên: xã Trung Cần (Thanh Chương) 3 người, xã Tiên Điền (Nghi Xuân) 3 người, xã Thu Hoạch (Thiên Lôc) 3 người, xã Lai Thạch (La Sơn) 3 người, xã Hoàn Hậu (Quỳnh Lưu) 3 người, xã Quan Trung (Đông Thành) 2 người, xã Lý Trai (Đông Thành) 2 người, xã Nội Thiên Lộc (Thiên Lộc) 2 người…
Số lượng đỗ cao tại các địa phương này chủ yếu là thuộc về các dòng họ nổi tiếng có truyền thống khoa bảng. Họ Lê ở xã Nội Thiên Lộc (Thiên Lộc) có hai anh em cùng đỗ khoa thi Vĩnh Hựu thứ 2 (1736): anh là Lễ Sĩ Triêm, đỗ Đệ tam giáp, em là Lê Sĩ Bàng đỗ Đệ nhị giáp (năm đó chỉ lấy 1 người đỗ đệ nhị giáp). Họ Ngô ở xã Lý Trai (Đông Thành) 4 đời liên tiếp đỗ 5 Tiến sĩ, cả 5 đều được đề tên tại bia đá. Ngoài cha con Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hòa như đã nhắc, còn có Ngô Sĩ Vinh là con Ngô Trí Hòa đỗ Đệ tam giáp năm 1646, Ngô Công Trạc là cháu nội Ngô Sĩ Vinh đỗ Song nguyên (Hội nguyên-Đình nguyên, đệ tam giáp) năm 1694, Ngô Hưng Giáo là em Ngô Công Trạc đỗ đệ tam giáp năm 1710. Họ Nguyễn Trọng ở xã Trung Cần (Thanh Chương) có cha là Nguyễn Trọng Thường đỗ đệ tam giáp năm 1712, con là Nguyễn Trọng Đương đỗ đệ tam giáp vào năm 1769, 3 kì thi sau Nguyễn Trọng Đường là cháu đích tôn của Nguyễn Trọng Thường, cháu gọi Trọng Đương bằng chú cũng đỗ đệ tam giáp năm 1779. Ba đời họ Nguyễn Trọng đều được triều đình cử đi sứ nhà Thanh nên tại nhà thờ họ ở xóm Khoa Trường, xã Trung Cần vẫn còn bức hoành phi đề 5 chữ “Tam thế ngũ hoàng hoa” (ba đời, năm lần được đi sứ) tương truyền do vua Thanh đề tặng.
Họ Lê ở xã Quan Trung (Đông Thành) có cha là Lê Kính đỗ Đệ tam giáp năm 1628, con là Lê Hiệu đỗ Đệ nhị giáp năm 1643. Cả hai cha con khi làm quan đều là Thượng thư đồng triều. Họ Nguyễn ở xã Hoa Lâm (Nam Đường) có cha là Nguyễn Phùng Thì đỗ Đệ tam giáp năm 1715, con là Nguyễn Bá Quýnh cũng đỗ Đệ tam giáp năm 1733. Họ Phan ở xã Thu Hoạch (Thiên Lộc) có cha là Phan Cận đỗ Đệ tam giáp năm 1754, con là Phan Huy Ích đỗ Đệ tam giáp năm 1775, em của Phan Huy Ích là Phan Huy Ôn cũng đỗ Đệ tam giáp hai kì thi sau (1779).
Họ Nguyễn ở xã Tiên Điền (Nghi Xuân) có cha là Nguyễn Nghiễm đỗ Đệ nhị giáp năm 1731, con là Nguyễn Khản đỗ Đệ tam giáp năm 1760.
Trong các họ xứ Nghệ thì họ Hồ ở Nghệ An (với hai nhánh chính là họ Hồ ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu và họ Hồ ở Thổ Thành (Yên Thành) là họ có thành tích khoa bảng đông đảo nhất. Theo số liệu của Đào Tam Tỉnh1 kể từ nhà Trần đến Nguyễn họ Hồ có tổng cộng 14 Tiến sĩ. Người mở đầu truyền thống khoa bảng dòng họ này là Trạng nguyên Hồ Tông Thốc đời Trần. Hiện tại trong văn bia Quốc tử giám có 5 Tiến sĩ họ Hồ: đầu tiên là Hồ Bỉnh Quốc đỗ Đệ nhị giáp chế khoa xuất thân năm 1577 (Hồ Bỉnh Quốc quê ở xã Bình Lãng, huyện Thiên Lộc, Hà Tĩnh. Gốc gác của ông vốn là họ Hồ Quỳnh Lưu, vì ông nội là Hồ Tông Thành đã chuyển từ Quỳnh Lưu sang lập nghiệp ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh), sau đó là Hồ Sĩ Dương (đời thứ 9) đỗ Đệ tam giáp năm 1652, Hồ Phi Tích đỗ Đệ nhị giáp năm 1700, Hồ Sĩ Tân đỗ Đệ tam giáp năm 1721, Hồ Sĩ Đống đỗ Đệ nhị giáp năm 1772 (Hội nguyên).
Trong hơn 100 Tiến sĩ Nho học Nghệ An có tên trên văn bia Văn Miếu, có 4 người Phan Huy Chú chọn ra để xếp vào mục Nhân vật chí trong Lịch triều hiến chương loại chí, coi như những gương mặt tiêu biểu nhất của trí thức xứ Nghệ có đóng góp cho quốc gia. Đó là Dương Trí Trạch, Nguyễn Văn Giai, Nguyễn Nghiễm, Ngô Trí Hòa. Nhìn chung đội ngũ khoa bảng Nghệ thời Lê sơ Lê Trung hưng chủ yếu đều đóng góp về phương diện quan trường, giữ các vị trí quan trọng trong quan nghạch triều đình. Số lượng các nhà khoa bảng có trước tác tiếng tăm để lại cho đời không nhiều (Phạm Nguyễn Du, Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Văn Giai…). Một khi đã kết thúc giai đoạn học tập quyết khoa, thì làm quan, gánh vác chính sự là bổn phận chính của họ. Nhìn từ phương diện này, có thể nói khoa cử xứ Nghệ đã cung cấp cho chính quyền phong kiến trung ương một đội ngũ quan lại cao cấp dồi dào, có tài năng và chí tiến thủ để đảm đương các loại công việc quản lý-hành chính-giáo dục đương thời.
Tài liệu tham khảo chính:
1. Văn bia đề danh tiến sĩ Việt Nam. Trịnh Khắc Mạnh. Nxb KHXH 2006
2. Văn bia Văn miếu Quốc Tử Giám. Đỗ Văn Ninh. Nxb Văn hóa thông tin, 2000.
3. Giáo dục và khoa cử Nhoc học thời Lê ở Việt Nam qua tài liệu Hán Nôm. Đinh Khắc Thuân. Nxb KHXH 2009.
4. Khoa bảng Nghệ An. Đào Tam Tỉnh. Nxb Nghệ An 2000.
5. Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn. Phạm Đức Thành Dũng. Nxb Thuận Hóa 2000.
sưu tầm
|