Nguyễn Công Trứ (1778-1859) tự là Tồn Chất, hiệu là Ngô Trai, biệt hiệu là Hy Văn, quê ở làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An (nay thuộc huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh), đỗ giải nguyên khoa Kỷ Mão đời vua Gia Long 1819.
Lúc đầu, ông làm Biên tu ở sử quán rồi lần lượt trải nhiều chức quan khác nhau. Đời làm quan của ông khá lận đận bị cách chức đến 5 lần nhưng ông lại vươn lên và được trọng dụng. Ông là người giỏi việc binh có tài văn học, tài kinh bang tế thế.
Vào tháng 3 năm Mậu Tý đời vua Minh Mạng khi đang là Tả Thị lang bộ hình, Nguyễn Công Trứ đã dâng sớ trình bày nhiều việc trong đó có việc: “Vỡ ruộng hoang cho dân nghèo”. Nguyễn Công Trứ tâu rõ: “Hiện ở Nam Định các huyện Giao Thủy, Chân Định, ruộng bỏ hoang mênh mông bát ngát không biết mấy ngàn mẫu, nếu cấp cho tiền công thì có thể nhóm họp dân nghèo mà khai khẩn. Thêm nữa bãi Tiền Châu hoang rậm, trộm cướp thường tụ họp ở đấy làm sào huyệt, nay cho khai hoang lập làng, không những có thể cho dân nghèo làm ăn, lại còn dứt được đảng ác”. Từ mối lợi đó, Nguyễn Công Trứ đề nghị cụ thể: Những đất hoang có thể khai khẩn được thì cho những người địa phương giàu có chia nhau trông coi cùng làm... Mộ được 50 người thì thành lập một làng cho làm lý trưởng. Mộ 30 người thì lập một ấp cho làm ấp trưởng. Mọi nhà đều được chia đất, cấp tiền công để làm cửa nhà, mua trâu bò nông cụ, lại lượng cấp tiền gạo, lương tháng trong hạn 6 tháng, ngoài hạn ấy thì làm lấy mà ăn. 3 năm thành ruộng chiếu lệ tư điền mà đánh thuế. Quan phủ huyện sở tại lập kho chứa thóc đề phòng năm mất mùa cho dân vay...”.
Tờ sớ của Nguyễn Công Trứ được nhà vua cho các đình thần bàn, cuối cùng nhà vua đã y sớ, giao cho Nguyễn Công Trứ chức Dinh điền sứ để tổ chức việc khai hoang. Có lệnh vua, Nguyễn Công Trứ đến vùng biển Nam Định chiêu tập dân nghèo và dân lưu vong các nơi, chỉ 6 tháng sau đã có 2.350 người đến lập nghiệp khai khẩn được 18.970 mẫu, thành lập 14 làng, 27 ấp, 20 trại (làng có diện tích 600 mẫu, ấp là 400 mẫu, trại 200 mẫu, giáp 120 mẫu). Tháng 9 năm Minh Mạng thứ 9 (1828) triều đình cho đặt tên là huyện Tiền Hải thuộc phủ Kiến Xương, trấn Nam Định (nay huyện Tiền Hải thuộc tỉnh Thái Bình).
Lập xong huyện Tiền Hải, Nguyễn Công Trứ lại dâng sớ lên nhà vua xin được khai khẩn ở đất Yên Khánh, Yên Mô (Ninh Bình). Triều đình đã chấp nhận và giao việc này cho Nguyễn Công Trứ. Sau thời gian độ nửa năm, với tài tổ chức của ông, vùng đất hoang hóa ven biển Ninh Bình đã được mở với 14.620 mẫu cấp cho 1.260 người lập được 3 làng, 22 ấp, 24 trại và 4 giáp chia làm 5 tổng. Tháng 3-1829 triều đình đã cho vùng đất khai hoang thành lập huyện mới lấy tên là huyện Kim Sơn (Ninh Bình).
Ngày nay, sử sách còn mãi khắc ghi công lao to lớn của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ, trong việc khai phá bãi biển lập nên 2 huyện Tiền Hải và Kim Sơn, cùng với cách bố trí hệ thống thủy lợi rất khoa học, cách bố trí dân cư rất hợp lý. Dân ở 2 huyện trên đều đã lập đền thờ Nguyễn Công Trứ để hàng năm hương khói tri ân người đã khai sinh ra mảnh đất “Núi vàng, biển bạc” ở đồng bằng Bắc bộ
nguồn cuocsongviet.com
|