Lược trích trong “hát phường vải” của Ninh Viết Giao
Câu hát phường vải khá chải chuốt, khá điêu luyện, vì hát phường vải đã trải qua một thời gian dài hàng mấy trăm năm, nhân dân với lối tư duy hình tượng đã đem tâm hồn và trí tuệ của mình tạo nên những câu ca hồn nhiên trong sáng.
Ngoài ra cũng phải kể đến sự đóng góp của nho sĩ. Tuy trong những câu hát đối đáp của các cụ, một số câu chỉ có lời mà không có nội dung, hoặc có nội dung nhưng lại là nội dung sách vở, đi vào khía cạnh chơi chữ để bẻ bai nhau, “trộ” tài chữ nghĩa với nhau làm mất khía cạnh hồn nhiên, trong trẻo của dân ca. Nhưng gạt ra ngoài những câu mang đầy điển tích, đầy lối chơi chữ, số còn lại đã hòa chung vào gia tài ca dao, dân ca vô giá của quê hương, của cả nước mà từng câu lóng lánh như những hạt kim cương. Đối với các nhà nho mê nôm, đã từng sáng tác thơ nôm để nói lên lòng yêu nước, đả kích bọn quan lại,…thì việc tắm gội ít nhiều vào ngọn nguồn mát mẻ của dân ca, đã giúp họ trau chuốt ngôn ngữ nghệ thuật, cung cấp cho họ cái ý vị tươi xanh của cuộc sống và cảnh vật nông thôn mà giữa tác giả bình dân lao động với câu ca tiếng hát của họ đã hòa quyện từ bao giờ. Đó là chưa kể phương tiện văn nghệ tự túc của nhân dân, các sáng tác dân gian từ đời nọ qua đời kia cùng với sinh hoạt văn hóa dân gian ấy, đã bồi dưỡng cho họ tình yêu cuộc sống, tinh thần lạc quan và lòng tin vào một ngày mai tất thắng về phía chính nghĩa. Chính họ và những người “tốt nghiệp trường tại gia”* đã làm cho nhiều câu hát mang tính chất “trí tuệ”, trí tuệ mà gợi tình trong gia tài hát phường vải nói riêng, hát ví dặm nói chung ở Xứ Nghệ.
Ta gặp những câu hát mang tính chất trí tuệ này ở logic diễn đạt:
Đá có rêu bởi vì nước đứng
Núi bạc đầu bời tại sương sa…
Ở nội dung vô cùng sâu sắc như chắt lọc bao hiểu biết thực tiễn trong cuộc sống:
Chợ chiều nhiều khế ế chanh
Nhiều cô gái tốt nên anh chàng ràng
Chàng ràng như ếch hai hang
Như cóc hai lỗ, như chàng hai nơi
Ở cách chơi chữ, dùng chữ trong các sách sử truyện mà câu hát vẫn tự nhiên, phải người tinh ý mới thấy được:
Lương duyên chỉ Tấn tơ Tần
Liệu đường định sở Châu Trần tùy cơ.
Ở câu hát đố có tính cách dân gian; “trăng bao nhiêu tuổi trăng già, núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non?” nhưng câu hát đáp lại thì có tính chất bác học:
Trăng ba mươi tuổi trăng già,
Thanh sơn bất lão gọi là núi non.
Và ngược lại, ở câu hát hỏi có tính chất bác học: “Sách rằng Nghiêu hữu cửu nam, Đan Du là một hỏi tám chàng những ai?” thì câu hát đáp lại có tính cách dân gian:
Phân em con gái nữ nhi,
Biết Đan Du là đủ, hỏi làm chi tám người.
(Phan Bội Châu)
Và cũng chính các nhà nho và một số nghệ nhân khác đã mang tính “trạng” vào trong câu hát. “Hát trạng” là hát nghịch ngược, sỗ sàng, thiếu tế nhị, ít văn hóa. Những “trạng “ không có nghĩa là phét, láo, tục tĩu. “Trạng” ở đây biểu hiện phẩm chất vui vẻ, nhanh trí song dí dỏm, luôn luôn mang hàm ý thách thức, tấn công của con người Nghệ Tĩnh. Tính chất trạng này không mâu thuẫn gì với nét trầm lặng, điềm tĩnh của con người Nghệ Tĩnh mà là hai mặt thống nhất hữu cơ, bổ sung cho nhau trong tính cách con người Nghệ Tĩnh, ví dụ như câu:
Đồn rằng chàng học Kinh thi,
Cá nằm dưới cỏ, chữ chi rứa chàng?
- Anh đây chẳng học kinh thi,
Cá nằm dưới cỏ, có khi cá tràu.
Phải chăng đó là những nét đặc sắc của lối dân ca này.
Rõ ràng hát phường vải đã đóng góp một phần vào việc làm cho tiếng nói dân tộc thêm phong phú. Trong cái vốn kho tàng văn học cũ của dân tộc ta, hát phường vải chiếm một địa vị đáng kể, như hát trống quân, hát quan họ, hát bài chòi vậy…
Về thể văn thì câu văn hát phường vải hầu hết được sáng tác theo thể lục bát biến thể, chỉ một số ít câu theo thể lục bát gián thất.
Mời nghe bài hát : Cảm xúc từ câu hò điệu ví
Nhạc sĩ Tiến Dũng
Trình bày NSND Thu Hiền
======
* “Tốt nghiệp trường tại gia” ở đây ý tác giả muốn nói về những phường vải vốn chưa bao giờ được tới trường, nhưng vẫn là người văn hay, sử rộng, đối đáp tài tình không thua gì các nho sĩ
Theo Ví Dặm đò đưa
|