Ông Hà Minh Trí, người ám sát hụt Ngô Đình Diệm.
Nhưng thực chất, ít ai biết rằng ông chính là một chiến sĩ cách mạng “nằm vùng” với nhiệm vụ, phải giết bằng được kẻ bán nước họ Ngô kia.
Dù cuộc ám sát không thành công nhưng cuộc đời của người chiến sĩ Công an nhân dân Việt Nam này cũng có một vị trí đặc biệt quan trọng trong giai đoạn lịch sử đất nước sau hiệp định Giơ-Ne-Vơ. Và, phát súng của ông tuy không giết được Ngô Đình Diệm, nhưng cũng gây nên những chia rẽ nội bộ, nghi kỵ lẫn nhau trong giới chóp bu của chế độ Ngụy quyền, dẫn đến việc các thuộc cấp đảo chính, giết chết anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu không lâu sau đó.
Tuổi thơ lang bạt
Chúng tôi tìm tới nhà ông Hà Minh Trí vào một ngày cuối năm ngập tràn nắng ở khu phố Thái Ninh (phường 1, thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh) sau khi vượt quãng đường chừng 100 cây số từ trung tâm TP.HCM. Trong căn nhà cấp 4 nhỏ, có trồng nhiều cây xanh, đón tiếp chúng tôi là một người đàn ông với dáng người mảnh khảnh, thoạt nhìn giống một ông giáo quê về hưu hơn là một “sát thủ” từng gây chấn động khắp thế giới sau phát súng ám sát Ngô Đình Diệm cách đây hơn nửa thế kỷ.
Nhưng, nếu nhìn kỹ vào đôi mắt, vẫn thấy những nét tinh anh của ông.
Vừa mời khách uống nước, ông vừa kể. Tôi sinh năm 1935, tên thật là Phan Văn Điền, quê ở Nghi Thiết (Nghi Lộc, Nghệ An), nhưng từ nhỏ, ba tôi đã tham gia kháng chiến chống Pháp và hy sinh, mẹ đi bước nữa nên phải ở cùng ông bà nội. Khi nạn đói năm 1945 diễn ra, ông bà dắt tôi lên thành phố Vinh (Nghệ An) để ăn xin thì chẳng may bị thất lạc nhau. Còn tôi, trong những lần đi mót bông, đay đã lạc vào một trang trại lính Nhật đang đóng ở đó.
Mặc dù là những kẻ giết người không ghê tay nhưng không hiểu sao, mỗi lần gặp tôi, một cậu bé chưa tới mười tuổi gầy gò, đen nhẻm, một số lính Nhật đã rất có cảm tình. Có lẽ, ở quê nhà phía bên kia đại dương, những người lính ấy cũng có gia đình, có một vài đứa con, như tôi chẳng hạn, nên họ quý mến mình. Ngoài việc được cho ăn cơm và cho đi chơi, những người lính ấy còn đem tôi từ Vinh vào một vùng đất vô cùng xa lạ, là tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trong những lần di chuyển của họ.
Ở Bà Rịa-Vũng Tàu một thời gian ngắn thì quân Nhật thua quân đồng minh nên tất cả tan rã, phải rút về nước. Sau đó, tôi được một cặp vợ chồng tốt bụng nhận làm con nuôi và đặt tên là Đinh Vạn Phú, vì bố nuôi tôi mang họ Đinh, cũng tham gia cách mạng.
Có thể nói, bước ngoặt cuộc đời tôi chính là việc được tham gia cách mạng theo sự dẫn dắt của người cha nuôi. Lúc ấy, tôi mang bí danh Đinh Dũng, tham gia “Đội biệt động N2” ở Bà Rịa-Vũng Tàu với nhiệm vụ ám sát, bạo động, thủ tiêu những kẻ là tay sai, bè lũ thân Pháp trong vùng.
Khẩu súng cùng loại với súng mà ôngTrí đã bắn Ngô Đình Diệm.
Đến năm 1948, được sự bố trí của tổ chức, tôi rời Bà Rịa-Vũng Tàu để ngược lên mạn biên giới Tây Ninh, tham gia vào đạo Cao Đài với những kế hoạch lâu dài dưới cái tên Triệu Thiên Hương. Tại đây, tôi đã kết thân được với một viên thiếu úy, là đồn trưởng đồn Cao Đài để thu giữ những bí mật, báo lại cho phía Việt Minh lên kế hoạch tấn công. Tuy nhiên, tôi đã bị bại lộ và bị bắt nhưng lại được anh trai của viên thiếu úy này cứu thoát. Sau đó, do tình hình bất lợi nên phải rút về căn cứ, hoạt động bí mật một thời gian.
Niềm tin của một sát thủ
Cần phải nhắc lại, trong thời gian này, tình hình đất nước đang vô cùng rối ren bởi sau khi Nhật đầu hàng, thực dân Pháp lập tức quay lại Việt Nam, dù trước đó chúng đã bị quân Nhật hất cẳng. Và, mặc dù đã bị thua tan tác ở chiến dịch Điện Biên Phủ và buộc phải ký kết hiệp định Giơ-Ne-Vơ, xóa bỏ chế độ Pháp thuộc ở Việt Nam, duy trì sự tự do, để toàn thể nhân dân Việt Nam được tự do bầu cử, tự mình quyết định lập chính phủ cho riêng dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, với mưu đồ cực kỳ thâm độc, mặc dù rút hết quân khỏi Việt Nam nhưng quân Pháp lại hậu thuẫn lập lên một chính phủ bù nhìn ở miền Nam Việt Nam với quốc trưởng Bảo Đại và phó trưởng là Ngô Đình Diệm.
Nhưng, cũng chỉ ít thời gian sau, chính Diệm, dưới sự hậu thuẫn của người Mỹ đã bất ngờ hất cẳng, đảo chính Bảo Đại để lên nắm quyền, tiến hành tổng tuyển cử ở miền Nam, thành lập chính phủ, tự phong mình là tổng thống.
Với xuất thân là một người theo đạo Thiên Chúa giáo nên chủ trương của họ Ngô là duy trì, phát huy vai trò của đạo Thiên Chúa như một tôn giáo chính dưới thời mình cầm quyền, đồng thời hạn chế các tôn giáo khác như đạo Phật (khiến hòa thượng Thích Quảng Đức phải tự thiêu để phản đối), đạo Cao Đài, … Chính vì vậy, ngoài việc luôn là mục tiêu hàng đầu trong những cuộc ám sát của các chiến sĩ cách mạng, Ngô Đình Diệm cũng là kẻ thù của nhiều tín đồ tôn giáo khác.
Lợi dụng tình hình này, các cán bộ đã quyết định giao nhiệm vụ ám sát Ngô Đình Diệm cho ông Hà Minh Trí, lúc ấy vẫn có nhiều mối quan hệ thân thiết với các tín đồ Cao Đài trong cái tên Mười Thương.
Vừa nhìn ra những giỏ lan màu tím man mác treo lủng liểng trước cửa nhà, vừa nhấp ngụm nước trà, ông lão đã bước vào cái tuổi xưa nay hiếm trầm ngâm nhớ lại. Những ngày ấy, an ninh trật tự ở miền Nam hết sức phức tạp.
Bên cạnh những cuộc chiến tranh giành quyền lực của các phe nhóm, giáo phái khiến chính quyền tổng thống Diệm luôn hết sức đề phòng thì an ninh ở tổng nha cảnh sát cũng luôn đặt ở mức báo động.
Chính vì vậy, để lên kế hoạch ám sát một người đang là đương kim tổng thống là hết sức khó khăn. Nhưng bằng quyết tâm, phải giết bằng được Ngô Đình Diệm mới mong xóa bỏ được chế độ Ngụy quyền, tôi đã dày công nghiên cứu, tìm hiểu về những kinh nghiệm ám sát của những "sát thủ", cả trong sách lẫn trong cuộc sống hiện thực.
Đầu tiên là việc luyện bắn súng. Có lẽ, để đạt được mục tiêu hạ thủ “con mồi” thì không có gì khác ngoài việc phải nhắm trúng mục tiêu, bắn nhanh và chuẩn xác, có thể chỉ là trong 1 hay 2 viên đạn. Với trình độ khoa học kỹ thuật thời đó, khẩu súng được tôi chọn lựa là khẩu MAT 49 với khả năng sát thương cao, có thể bắn liên tiếp nhiều viên đạn (khoảng 900 viên/phút) để tăng cao khả năng thành công.
Tuy nhiên, do đặc điểm của khẩu súng MAT 49 của Pháp chế tạo là có nòng súng dài, báng súng và hộp đạn khá lớn, nặng nên gây khó khăn trong việc giấu vũ khí và ra tay khi có thời cơ. Thế là, sau một thời gian mày mò nghiên cứu, tôi đã quyết định tự cưa nòng súng ngắn lại theo phương pháp thủ công với mục đích có thể giấu súng vào trong áo khoát cho gọn gàng. Tiếp đến là phải tập bắn với khẩu súng đã cưa nòng này ở những cự ly, góc độ khác nhau.
Thú thực, khi ấy, tôi đã nghĩ rằng, nếu có cơ hội tiếp cận Ngô Đình Diệm để thực hiện cuộc ám sát thì tôi có thể dùng nhiều loại vũ khí khác mà xác suất thành công hơn rất nhiều, như lựu đạn hoặc thuốc nổ, bom tự chế chẳng hạn. Tuy nhiên, lãnh đạo tổ chức đã quyết định không sử dụng các loại vật liệu nổ vì như vậy sẽ gây sát thương cho nhiều người, đó là điều nên tránh bởi mục tiêu chỉ là một mình Ngô Đình Diệm.
Thứ 2, quan trọng không kém là vấn đề tự trấn an… chính bản thân mình bởi ai cũng biết, hậu quả của việc ám sát tổng thống, dù thành công hay thất bại thì kết cục chỉ có một, gần như nắm chắc cái chết chứ khó mà chạy thoát. Khi ấy, tôi cũng như nhiều thanh niên khác, đã có một người con gái để mình “thề non hẹn biển” nên mình cũng ít nhiều đắn đo, nếu chẳng may mình một đi không trở về, cô ấy sẽ sống ra sao.
Tuy nhiên, bằng quyết tâm và ý chí sắt đá, tất cả vì một mục tiêu duy nhất mà cách mạng đã giao phó, tôi đã gạt bỏ tình riêng bởi nếu để Ngô Đình Diệm sống càng lâu thì càng có nhiều những cặp đôi lứa khác phải chia lìa. Có thể, bản thân mình chia lìa nhưng sẽ góp phần cho hàng ngàn những đôi lứa khác được sum họp, thì đó cũng là một điều đáng làm.
Thế nên, sau một thời gian chuẩn bị, thời cơ đã đến khi tình báo của Việt Minh xác định, Ngô Đình Diệm và đám thân tín sẽ xuất hiện tại Ban Mê Thuột vào thời điểm cuối tháng 10.1956 nên ông cùng các cộng sự đã sắp xếp, chuẩn bị bố trí để đón lõng Diệm với nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, giết chết vị tổng thống của chế độ Ngụy quyền miền Nam Việt Nam.