Nữ sĩ Ngân Giang, một tài thơ sớm nổi danh từ trước Cách mạng tháng Tám, được mệnh danh là Nữ hoàng Đường thi Việt Nam với trên 4000 thi phẩm. Rất nhiều điều đặc biệt xung quanh cuộc đời nữ sĩ. Vốn đặc biệt nhạy cảm và sớm có lòng yêu nước, khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, nữ sĩ Ngân Giang (khi ấy đã rất nổi tiếng) lập tức có mặt trong đội ngũ những người đi theo cách mạng. Bằng nhiều việc làm cụ thể trong đó có những đóng góp thơ ca, Ngân Giang nổi lên như một hình ảnh độc đáo của việc các tầng lớp nhân dân, nhất là giới văn nghệ sĩ sớm gia nhập đoàn quân cách mạng. Hà Nội hôm nay cờ đỏ bay/ Cho lòng Hà Nội cũng say say/ Chín mùa, cả chín mùa trông đợi/ Mà những người xa đã ở đây. Hà Nội tưng bừng hồn Tổ quốc/ Thét lên thành nhạc, nói thành thơ/ Núi quen quân đội vang chân bước/ Những bước chân quen mấy thuở chờ (Chín mùa trông đợi).
Trong những ngày toàn quốc kháng chiến, thân gái dặm trường, nữ sĩ Ngân Giang lặn lội đến tận Bắc Giang mua tặng Trung đoàn Thủ đô ba mươi tấn gạo, góp phần để chiến sĩ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Nữ sĩ Ngân Giang cũng là người được Hồ Chủ tịch gửi thơ khen tặng sau khi bà tự tay thêu bức trướng gửi tặng Bác; thơ của Người bây giờ vẫn còn được lưu giữ: Mấy lời cảm tạ Ngân Giang/ Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu. Đã hơn sáu mươi năm kể từ ngày nhận những vần thơ ấy của Người, nữ sĩ cũng đã đi xa, nhưng Tiếng vọng sông Ngân vẫn còn vang mãi.
Ngân Giang sinh ra ở Hàng Trống - Hà Nội năm 1916, con nhà nho học danh gia vọng tộc một thời, sớm nở tài thi họa, đã tự viết tên mình trong làng văn đất Việt trước năm 1945. Khởi từ sáu tuổi đã viết câu thơ đầu tiên, đến chín tuổi đã có bài Vịnh Kiều nổi tiếng, mười sáu tuổi in tập thơ Giọt lệ xuân được văn giới và báo giới trước Cách mạng hết sức ngợi khen, mặc nhiên coi nữ sĩ là bậc thần đồng. Thời ấy Ngân Giang thường xuyên xuất hiện trên các báo, tạp chí Phụ nữ thời đàm, Tri tân, Tiểu thuyết thứ Bảy... với nhiều bút danh như Thục Oanh, Nàng Lém, Chị Mến, Nàng Không Tên, Lữ Vân. Từng vào Sài Gòn sống bằng nghề viết văn, viết báo, luôn được giới văn bút Sài Gòn đề cao và trân trọng. Năm 1944, tập thơ Tiếng vọng sông Ngân nức tiếng thi đàn, và về sau, là những Xuân chiến địa, Trưng Nữ vương, Tiễn con ra trận... Qua kháng chiến, rồi hòa bình, bao nhiêu chìm nổi với một cuộc đời nữ sĩ - chiến sĩ cách mạng có gần chín mươi tuổi trời cũng là ngần ấy mùa màng của thơ ca.
Ngay sau Cách mạng tháng Tám một thời gian ngắn, thực dân Pháp hiếu chiến và quỷ quyệt bội ước nổ súng vào đồng bào ta. Hồ Chủ tịch kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Trong những ngày ác liệt ấy, nữ sĩ Ngân Giang, một con người tài sắc nổi tiếng lập tức tham gia chiến đấu. Khi thì uyển chuyển linh hoạt vào tận hang cọp Tàu Tưởng để cứu các bạn đồng chí, khi thì chăm sóc bộ đội, thương binh. Khi nhạc sĩ Đỗ Nhuận bị bắt giữ, Ngân Giang với sắc đẹp và bản lĩnh của mình đã trực tiếp gặp những tên tướng Tàu đề nghị trao trả tự do cho người nhạc sĩ tài hoa.
Ngân Giang là thế.
Hình ảnh một Ngân Giang dịu dàng, quyết liệt mà vẫn rất mực tinh tế, nho nhã còn in sâu trong ký ức của nhiều người. Bác Lê Duy Chữ, cán bộ lão thành cách mạng, nguyên Cục phó Cục Bảo vệ chính trị, Ban Nội chính Trung ương khi trao đổi với chúng tôi có kể nhiều chuyện khá đặc biệt về tài ứng xử của Ngân Giang - người đã nhiều lần vào hang cọp trong buổi đầu trứng nước của cách mạng. Thực ra, nữ sĩ xứng đáng là một trong những chiến sĩ tình báo đầu tiên của cách mạng Việt Nam, nhưng với bản tính kẻ sĩ của mình, sinh thời, rất ít khi bà nhắc về những chiến công lặng lẽ này.
Mấy ai biết con người lừng danh ấy có một cuộc đời riêng cực kỳ truân chuyên, vất vả. Ngân Giang từng nói: “Chẳng ai như tôi, năm mười bảy tuổi được hai bên cha mẹ cho kết hôn nhưng ngay đêm tân hôn đã bị mật thám xộc vào nhà chồng khám xét với lý do cô dâu dính líu đến “Hội kín”. Nhờ tài ăn nói và sự hiểu biết rộng, câu chuyện được dẹp yên nhưng điều đó làm cho gia đình nhà chồng khiếp đảm, trả nàng dâu về nhà bố mẹ đẻ. Rồi sau này, mỗi một thi phẩm nổi tiếng bao giờ cũng gắn với những hiểu lầm riêng tư và kết cục luôn thua thiệt về người phụ nữ. Sau này cũng vậy, đã đi qua mấy cuộc chiến tranh nhưng những tai ách như từ trên trời giáng xuống vẫn chẳng chịu buông tha. Tôi cho đó là số kiếp cũng là thử thách tấc lòng tấc dạ của khách văn chương trước cuộc đời”.
Nữ sĩ Ngân Giang gặp nhiều trắc trở trong đời sống riêng tư mà phần nhiều do thơ mang đến như một tai ách khó giải thích. Bài Xuân chiến địa nổi tiếng trước Cách mạng (được báo Cứu quốc in lại năm 1946) cũng là bài thơ có số phận khá bi hài. Một hôm Ngân Giang rất bất ngờ và bất bình khi người chồng (một trí thức, công chức cao cấp) đi làm về đã xé tan bài thơ bà vừa chép và mắng: “Không đứng đắn! Gái có chồng rồi mà còn... Em mơ trai... Em ấm lòng”. (Chả là trong bài thơ có những câu: Em cũng mơ người trai đất Việt; Em cũng ấm lòng khi nhạc ngựa...). Nữ sĩ chưa hết bàng hoàng thì đồng chí Trần Huy Liệu, khi ấy là Bộ trưởng Bộ Thông tin trong Chính phủ lâm thời bước vào. Dường như cảm nhận được điều gì đó đặc biệt, ông đã lượm những mảnh giấy bị xé chắp lại. Đọc xong bài thơ, ông nhìn hai vợ chồng, cười vỡ ra và nói: Bài thơ hay thế này sao lại xé bỏ đi. Rồi đồng chí Bộ trưởng bỏ bài thơ vào túi. Mấy hôm sau bài thơ được in nguyên văn trên báo Cứu quốc. Ngân Giang thấu hiểu sự liên tài của những người bạn đồng chí cũng là sự cảnh báo đối với anh chồng vừa ghen tuông vừa chấp nhặt. Sau đó, là một cuộc chia tay tất yếu.
Bài Trưng Nữ vương nổi tiếng nhất của nữ sĩ Ngân Giang lại gắn với cái chết ngay trên bục giảng trường Đại học Văn khoa Sài Gòn của thi sĩ Đông Hồ. Đang giảng bài thơ này, đoạn Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa/ Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi/ Chàng ơi điện ngọc bơ vơ quá/ Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi… mới đến câu thứ ba, do quá xúc động, thi sĩ đột quỵ trên bục giảng. Mọi người xúm vào đưa đi cấp cứu nhưng đã không kịp nữa.
Sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân rất trân trọng Ngân Giang. Khi bà bán nước ở bãi Nghĩa Dũng, trong căn nhà nhỏ đơn sơ ở bờ sông, Nguyễn Tuân rất hay đến thăm nữ sĩ. Khi ông đến, thường bước thẳng vào phòng văn, không chào hỏi ai, tiến luôn tới đỉnh trầm rắc trầm vào đó, miệng đọc những vần thơ mà ông ưa thích: Khơi đỉnh trầm lên! Kìa thái giám!/ Cho hương tỏa quyện điệu tỳ bà/ Nối thêm bạch lạp chờ thiên tử/ Vườn Ngự trăng về ngả bóng hoa... Rồi với một điệu bộ nghiêm trang tao nhã, Nguyễn Tuân quay sang bên vách tường gỡ cây đàn tam thập lục nhuốm màu năm tháng kính cẩn trao vào tay nữ sĩ, vừa đọc: Thái giám cúi dâng đàn trước kỷ/ Rắc thêm trầm ngát xuống lư vàng/ Lung linh bạch lạp soi nhan sắc/ Mười ngón tay ngà nhấn phím loan... Một buổi tao ngộ văn chương cầm kỳ thi họa của những tao nhân mặc khách thường được bắt đầu như thế trong ngôi nhà nhỏ bé tồi tàn ở bên sông, cho thấy đời sống tinh thần luôn là tối quan trọng với giai nhân tài tử thời ấy.
Cuộc đời Ngân Giang là một cuộc đời đặc biệt, diệu kỳ, nhưng dù ở hoàn cảnh nào, dù khó khăn gian khổ đến mấy vẫn vẹn nguyên tinh thần dân tộc, như nữ sĩ đã viết: Hãy gác tình riêng mưu nghiệp lớn/ Để dòng máu giặc dội biên cương. Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ/ Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai. Kiếm kích có yên bao trận địa/ Văn chương cũng chuyển cả san hà/ Tài nhân, danh sĩ ngàn thu trước/ Đuổi vạn hùng binh nửa khúc ca.
Các bạn văn của nữ sĩ hôm nay, thảy đều khâm phục một Ngân Giang tài sắc vẹn toàn, trước sau như một, với dân tộc, với Đảng, với Bác Hồ và sống vô cùng nhân hậu với gia đình, với bằng hữu văn chương. Thi phẩm của nữ sĩ trải tám mươi năm sáng tác có thể nói là rất đồ sộ.
Người con gái tài sắc nhường ấy đã tự nguyện trải đời mình theo tất cả các cuộc chiến tranh cách mạng chỉ với một mục đích duy nhất là làm thơ và đánh giặc. Cuộc đời làm thơ, cuộc đời cách mạng của nữ sĩ là một tấm gương tiêu biểu của kẻ sĩ trước họa xâm lăng. Tấm lòng Ngân Giang khó nói hết thành lời, nhưng qua thơ của nữ sĩ, chúng ta đã phần nào hiểu được tấm lòng mênh mông ấy
P.S
Theo Tạp chí Văn nghệ Quân đội
|