Nguyễn Duy Xuân
Sinh năm 1957
Quê Xuân Lâm, Nam Đàn, Nghệ An
Hội viên Hội VHNT Đak Lak, cán bộ giảng dạy trường sư phạm Đak Lak
Thơ đã xuất bản: Giọt nắng cao nguyên - NXB Hội nhà văn 2013; Sáu và Tám - NXB Công an nhân dân 2010; Tuyển thơ đất đứng - NXB Hội nhà văn 2011; Hà Nội và ký ức Điện Biên - NXB Hội nhà văn 2014; Đát nước tình yêu - NXB Văn hóa thông tin
Chưa bao giờ thơ ca viết về người lính biển lại nở rộ như hiện nay, nhất là sau những hành động ngang ngược của Trung Quốc đem tàu chiến, giàn khoan xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam hồi đầu tháng 5-2014. Ta bắt gặp ở đây những gương mặt quen thuộc của thi ca Việt Nam đương đại như: Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Việt Chiến, Đặng Bá Tiến, …; những gương mặt còn mới mẻ đối với người yêu thơ như Bùi Văn Bồng, Huệ Nguyên, Đỗ Thị Hoa Lý, Hồng Diệu…và cả những người trong cuộc đó là các chiến sĩ đang ngày đêm đối mặt với hiểm nguy nơi đầu sóng ngọn gió để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Sự đa dạng đó làm nên bức tranh nhiều sắc màu cho mảng thơ ca viết về người lính biển.
Thế hệ những người lính biển hôm nay vẫn tiếp nối truyền thống hào hùng của cha anh thời đánh Pháp, đánh Mỹ: khi tổ quốc lâm nguy, tuổi trẻ sẵn sàng xả thân vì sự trường tồn của đất nước:
Họ đã lấy ngực mình làm lá chắn
Để một lần Tổ quốc được sinh ra
…
Họ đã lấy thân mình làm cột mốc
Chặn quân thù trên biển đảo quê hương
(Tổ quốc ở Trường Sa - Nguyễn Việt Chiến)
Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân
Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
Những chàng trai ra đảo đã quên mình
(Tổ Quốc nhìn từ biển, Nguyễn Việt Chiến)
Những người lính hi sinh trong trận hải chiến Gạc Ma năm xưa đã trở thành một biểu tượn đẹp cho tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường của dân tộc trong cuộc chiến đấu bảo vệ và giữ gìn biển đảo quê hương:
những chàng trai mười tám đôi mươi
ngực căng gió ôm chặt cờ đỏ
chân cắm đá như cọc gỗ Bạch Đằng
chở che cho biển đảo quê hương
trước bom đạn quân thù xối xả
máu các anh thắm đỏ màu cờ
(Các anh sống mãi trong lòng nhân dân – Nguyễn Duy Xuân)
Các anh đã tạc vào thế kỉ “dáng đứng Việt Nam” – hiên ngang, bất khuất trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng của đất nước:
Chưa bao giờ khuất phục lũ xâm lăng
Ngàn năm trước và bây giờ vẫn thế
Lòng dân ta vẫn vẹn nguyên hào khí
Của Đống Đa, Như Nguyệt, Bạch Đằng…
(Biển những ngày này, Đặng Bá Tiến)
Trường Sa - Biển Đông – nơi đầu sóng ngọn gió. Ở đó người chiến sĩ ngày đêm phải đối mặt với bao gian khó hiểm nguy. Tuy không có cảnh trèo đèo vượt suối “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” hay “mưa dầm cơm vắt”… nhưng người lính nơi đảo xa lại có những thử thách mà đất liền không có. Sẽ là khập khiễng khi so sánh gian khổ mà thế hệ cha anh đã chịu đựng với gian khổ mà người lính biển phải trải qua hôm nay. Thời chiến tranh giải phóng dân tộc, đất nước vừa thoát khỏi đêm trường nô lệ, khó khăn thiếu thốn vật chất là lẽ đương nhiên. Người lính thời đó đã vượt qua với tinh thần nghị lực vô song. Có thể nói, ở thời kì ấy, cái gian khổ, thiếu thốn không dành cho riêng ai. Bởi thế, cả dân tộc mới chung một ý chí: “Không có gì quí hơn độc lập tự do!” (Hồ Chí Minh); “…toàn đất nước có một tâm hồn có chung khuôn mặt” (Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa, Chế Lan Viên), để rồi làm nên lịch sử mang tầm vóc thời đại: Điện Biên Phủ mồng 7-5-1954 và Đại thắng mùa Xuân 30-4-1975.
Người lính hôm nay sống, chiến đấu trong một hoàn cảnh khác xa so với thời của cha anh. Đất nước hòa bình thống nhất, kinh tế xã hội phát triển, đời sống vật chất, đời sống tinh thần ngày một nâng cao. Cái gian khổ, thiếu thốn không còn ghê gớm như xưa nhưng nó vẫn là thử thách đối với nghị lực con người. Nói thử thách vì đặt trong bối cảnh chung của xã hội, người lính biển phải chịu nhiều thiệt thòi. Trong lúc bạn bè cùng trang lứa yên tâm học tập nơi giảng đường đại học hay bằng lòng với công ăn việc làm ổn định, lo vun đắp tổ ấm gia đình, thậm chí có một bộ phận không nhỏ giới trẻ sa vào cuộc sống hưởng lạc thì những người lính vẫn ngày đêm đối mặt với gian lao, canh giữ biển trời tổ quốc. Mà đâu có phải bình yên gì. Biển Đông nóng bỏng từng ngày từng giờ. Bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra biến cố và khi ấy, chính các anh là những người đầu tiên phải đối mặt với hi sinh mất mát. Biết bao chiến sĩ đã ngã xuống từ sau 30-4-1975 đến nay trên mặt trận Trường Sa – Biển Đông?
Gian khổ mà người lính biển phải trải qua là môi trường sống khắc nghiệt giữa trùng dương đã được cây bút nữ trẻ tuổi Hồng Diệu khắc họa:
Trường Sa ngày đông đang đi qua
Lạnh thấu da thấu thịt
Trường Sa, hạ về nắng trắng trời đến lạ
Nóng rát thân người, buồn những dấu chân qua
(Nhật kí trên sóng cả, Hồng Diệu)
Nơi đảo xa ấy, “Những luống rau xanh khó tươi vì thiếu nước / Đất ít, khô cằn, nắng xối, muối mặn hơi / Giông gió liên miên cuốn dễ sức người / Rau không tốt bữa cơm người khó nuốt.” (Thương lắm Trường Sa ơi, Hồng Diệu); và “Nơi đây gió lộng bốn bề / hất tung chậu cảnh vừa kê trước thềm / lạnh lùng là gió nửa đêm / nóng ran ngọn gió ngang triền đảo trưa…” (Gió cát Trường Sa, Bùi Văn Bồng)
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của khí hậu đại dương, người lính biển khát khao cháy bỏng một cơn mưa:
Chúng tôi ngồi trên đảo Sinh Tồn
Bóng đen sẫm như gốc cây khô cháy
Mắt đăm đăm nhìn về nơi ấy
Nơi cơn mưa thăm thẳm xa khơi ánh chớp xanh lấp loáng phía chân trời...
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Trần Đăng Khoa)
Một cơn mưa, dù rất nhỏ nhưng cũng đủ để làm mát cơ thể, làm dịu tâm hồn những người lính trẻ:
… Mưa đi ! Mưa đi ! Mưa cho mãnh liệt
Mưa lèm nhèm chúng tôi chẳng thích đâu
Nhưng không có mưa rào thì cứ mưa ngâu
Hay mưa bụi ... mưa li ti... cũng được
Mặt chúng tôi ngửa lên hứng nước
Một hạt nhỏ thôi cát cũng dịu đi nhiều...
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Trần Đăng Khoa)
Nhà thơ Đỗ Thị Hoa Lý dù ở trời Tây (Ucraine) xa xôi nhưng vẫn cảm nhận được “cơn khát” của người lính nơi Trường Sa:
Trường Sa ơi bão tố bủa vây
Tán bàng vuông nhọc nhằn che chở
Ngọn rau xanh oằn mình diệp lục
Từng giọt chắt chiu cơn khát Trường Sa!
(Tiếng gọi Trường Sa, Đỗ Thị Hoa Lý)
Nhưng có lẽ đấy chưa phải là thử thách lớn đối với người lính biển. Gian khổ thiếu thốn vật chất và sự khắc nghiệt của thời tiết, các anh có thể vượt qua, nhưng thiếu thốn tinh thần, tình cảm thì quả là một liều thuốc thử “đặc biệt” nhất là trong hoàn cảnh hiện tại như chúng tôi đã nói ở trên. Bài thơ Câu trả lời cho tình yêu người lính biển trong tôi của tác giả trẻ Hồng Diệu đã nói hộ người lính biển tâm trạng đó:
Cách biệt xa xôi đất liền khó tới
Bao tâm tư của người lính muốn gửi
Cũng phải đành nhớ sóng trùng khơi.
Với những người lính đã có mái ấm gia đình, thử thách dường như còn tăng thêm một “cấp độ” nữa:
Có vợ rồi cũng chịu cảnh chia đôi
Thèm hơi ấm nào đâu có nổi
Vợ sinh con cũng đành chờ đợi
Đến phép về mới thấy nổi mặt con...."
(Câu trả lời cho tình yêu người lính biển trong tôi, Hồng Diệu)
Nỗi nhớ đất liền, nỗi nhớ người thân luôn cánh cánh trong lòng người lính biển. Giữa muôn trùng sóng gió, có lẽ đây là điều làm nên điểm tựa vững chắc trong tâm hồn người lính để các anh luôn mài sắc cảnh giác, chắc tay súng bảo vệ biên cương. Một người lính trẻ đã viết những câu thơ thật xúc động:
Anh lính đảo nhớ nhà
Thèm mùi thơm cơm nếp
Sóng biển vỗ mặn mòi
Lính đảo hiên ngang dáng hình Tổ Quốc
(Tình Tổ quốc, Phạm Hồng Thái)
Trong những ngày hè nóng bỏng (tháng 5-2014) trước việc Trung Quốc ngang nhiên đem giàn khoan Hải Dương-981 xâm phạm vùng biển chủ quyền của Việt Nam, bài thơ “Tiếng biển” của một người lính xuất hiện trên Facebook đã tạo được sự đồng cảm của hàng triệu trái tim đối với những người lính nơi biển xa:
Hậu phương đất liền yên tâm nhé vợ ơi
Cuối tuần về quê cho anh nhắn đôi lời
Thưa với cha và thắp hương khấn mẹ
Anh vẫn vững vàng nơi biển đảo xa xôi...
Em hãy đưa điện thoại kề gần nôi
Để con chúng mình nghe tiếng của biển khơi
Anh không thể ẵm bồng ru con ngủ
Gửi tiếng biển về yên giấc con thôi...
(Tiếng biển, Fb Người lính biển)
Trong tình cảm của người lính dành cho hậu phương, tình yêu đôi lứa có cung bậc nồng nàn cháy bỏng của tuổi hai mươi. Trần Đăng Khoa đã rất thành công về chủ đề này qua bài “Thơ tình người lính biển” nổi tiếng từ những năm tám mươi của thế kỉ trước:
Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên.
Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không hiểu nữa. Chỉ có anh với cỏ
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên...
(Thơ tình người lính biển, Trần Đăng Khoa)
Bài thơ có giai điệu ngọt ngào, sâu lắng đã khơi gợi cảm xúc để người nhạc sĩ nổi tiếng Hoàng Hiệp viết nên ca khúc cùng tên lay động tâm hồn bao thế hệ thanh niên.
Lính đảo yêu cũng giản đơn lắm. Nơi trùng khơi không có chỗ cho sự nũng nịu, hoa hòe hoa sói:
Lính đảo yêu thế, thương là thế
Ai dám thư tình gửi nhớ thương
Không mạng, chẳng game và đừng chat
Xin một con tem với thư thường.
(Tình yêu lính đảo, Bùi Văn Bồng)
Quà tặng người yêu của lính đảo cũng khác người:
Sau phiên gác, chân trần ra bờ cát
Tai nghe biển hát mắt tìm hoa
Lặn vào sóng biển xanh mặn chát
Kiếm san hô ngũ sắc làm quà
(San hô đảo đá, Bùi Văn Bồng)
Những người lính: “Tuổi đôi mươi lồng lộng biển trời / Mắt trong vắt chưa một lần hò hẹn / Đêm mơ còn nũng nịu gọi “Mẹ ơi!” (Thao thức Trường Sa, Nguyễn Thế Kỷ) đã vượt lên tất cả, chấp nhận gian khổ, hi sinh tuổi thanh xuân vì biển đảo quê hương. Dẫu tình yêu, nỗi nhớ đối với hậu phương da diết, trĩu nặng trong lòng nhưng các anh nén lại, tạm gác tình riêng vì nghĩa lớn:
Thôi em đợi ngày vui ấy đến
Còn bây giờ biển nổi sóng gầm vang
Đồng đội anh tất cả đã sẵn sàng
Chắc tay súng giữ biển trời Tổ quốc
Tất cả một lòng hướng về phía trước
Chuyện gia đình tạm gác lại phía sau
(Tôi đứng giữa biển trời Tổ quốc, Nguyễn Xuân Quát)
Vâng, “chuyện gia đình tạm gác lại phía sau” khi “Tổ quốc gọi tên mình”, người lính lại sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ thiêng liêng:
Tổ quốc gọi rồi... cha phải đi thôi
Con trai à, việc nhà nhờ con nhé
Vì cha biết... con rất mạnh mẽ
Sẽ là bờ vai cho mẹ dựa thay cha...
Con trai à, cha phải ra đi
Vì biển Đông còn chưa nguôi sóng dữ…
(Nếu một mai cha không về nữa, Facebook “Tâm sự người lính biển”)
Người lính – người cha ấy nguyện làm tấm lá chắn cho đất nước và cho thế hệ tương lai:
Ba sẽ dùng lồng ngực của mình để chắn sóng dữ biển Đông
Để cho con được vui chơi cùng bè bạn
Để con được ước ao một tương lai sáng lạn
Không phải tủi nhục xen trong nỗi hờn căm.
(Nói với con gái, Hương Trang)
Nói đến chiến tranh là nói đến mất mát hi sinh. Trong bối cảnh hiện nay, chủ quyền biển đảo của tổ quốc đang bị ngoại bang nhòm ngó lấn chiếm, bất cứ lúc nào người lính biển cũng phải đối mặt với hiểm nguy. Đảo xa vì thế, luôn luôn là tuyến đầu Tổ quốc. Người lính biển hiểu rõ điều đó cho nên dẫu có lo lắng cho mẹ già, con thơ hay thương nhớ một bóng hồng, các anh vẫn kiên định tinh thần, cái tinh thần của cha anh một thuở: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” (Tây Tiến, Quang Dũng):
Nghẹn ngào chào mẹ ra đi
Mẹ nuôi con lớn chưa gì báo ân
Nhưng mẹ ơi… Tổ quốc cần
Đời trai bao lớp hiến dâng thân mình.
(Tiếng gọi của biển, Facebook “Lính biển Việt Nam”)
Biển gọi! Những chàng trai mười chín đôi mươi chẳng thể nào yên:
con chẳng thể ngồi yên ngày rách những thân tàu
bạn con giành giật tương lai cho các em mình trên đầu mũi đạn
máu vẫn chảy mặn đường cong chữ S
con có thể ngồi yên?
(Biển gọi, Huệ Nguyên)
Bởi thưa Mẹ, chúng con cũng như cả dân tộc này đã quyết:
không thể để lưỡi bò liếm biển
vạn vòi rồng không hiếp nổi con cháu Lạc Long Quân
(Biển đảo ta ơi, Nguyễn Đức Khẩn)
Các anh sẵn sàng hiến dâng cho vẹn toàn đất nước, cho “Tổ quốc giữa trùng khơi sinh nở, trường tồn.” (Thao thức Trường Sa, Nguyễn Thế Kỷ)
Bởi thế, dù cách xa đất liền vời vợi, dù đảo nhỏ như hạt cát giữa trùng khơi, người lính biển vẫn không bao giờ cảm thấy cô đơn:
Đêm Trường Sa không lặng lẽ
Người chiến sỹ đi tuần luôn có biển ở bên
(Đêm Trường Sa, Đỗ Thị Hoa Lý)
Thậm chí còn rất lãng mạn:
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên.
(Thơ tình người lính biển, Trần Đăng Khoa)
Đằng sau các anh là cả một hậu phương bao la “Mẹ Tổ quốc vẫn luôn ở bên ta” (Tổ quốc ở Trường Sa, Nguyễn Việt Chiến) và 90 triệu con tim tiếp thêm sức mạnh cho các anh vững vàng nơi biển đảo xa xôi:
Anh lên đường ra giữ biển bình yên
Giữ non sông và giữ lấy chủ quyền
…
Em nơi này luôn trao trọn niềm tin
Niềm tự hào và tình yêu lính biển
(Tự hào Hải quân nhân dân Việt Nam, Đoàn Ngọc)
Trong tim mỗi người con đất Việt, Trường Sa không xa, Trường Sa gần lắm! Trường Sa mãi mãi trong lòng Đất Nước, trong tâm hồn người lính biển, trong tình yêu lứa đôi:
Không xa đâu Trường Sa ơi !
Không xa đâu Trường Sa ơi !
Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh
Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em
(Gần lắm Trường Sa, Huỳnh Phước Long)
Ai đó bảo, thơ viết về biển đảo chưa nhuyễn, chưa có chiều sâu. Điều đó có thể đúng nhưng tôi nghĩ cái cốt lõi ở đây là nó đã nói lên được tiếng nói của cộng đồng ở một thời điểm mà đất nước đang đối mặt với nhiều thử thách. Thơ ca không thể cứ sống mãi trong ánh hào quang của quá khứ hay co mình lại trong cái tôi chật hẹp suốt ngày ngâm ngợi vịnh ca mà phải dám đối mặt với cuộc sống để nói lên tiếng nói lương tri con người.
Thơ viết về biển đảo nói chung và về người lính biển nói riêng trong thời gian gần đây, nhất là từ sau sự kiện Trung Quốc hạ đặt dàn khoan trái phép trên vùng biển Việt Nam, thể hiện tính chân thực, mang hơi thở của cuộc sống và tình yêu đất nước quê hương. Đọc những vần thơ ấy, chúng ta linh cảm được cái thiêng liêng từ sự hi sinh của người lính để “Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra” (Tổ quốc ở Trường Sa, Nguyễn Việt Chiến).
Nguyễn Duy Xuân
Nguồn: Tạp chí Văn Mới 7/6-2015
toasoanvanmoi@gmail.com
BBT Báo nguoixunghekiev.vn, ngày đăng 10/7/2015
|