Trang chủ Liên hệ       Chủ nhật, Ngày 24/11/2024
 
 
THÔNG TIN
Giới Thiệu Hội
Trang Thể Thao
Sức khỏe & Đời sống
Ẩm thực Nghệ Tĩnh
Việt Nam Đất Nước Con Người
Khoa học & Môi Trường
Chuyện lạ đó đây
Nhịp cầu Nhân ái
DANH SÁCH TẤM LÒNG VÀNG
Tin tức Nghệ Tĩnh
Truyền thống Nghệ Tĩnh
Tâm sự cuộc sống
Văn hóa - Xã hội
Văn Nghệ
  -  Văn Thơ Sưu Tầm
  -  Sáng Tác Cộng Đồng
  -  Văn thơ của bạn
Thư Viện
Góc Cười
Tin Trong nước -Tin Quốc Tế -Tin Ucraina
Tin Cộng Đồng
Người Việt Trên Thế Giới
BÀI DỰ THI VỀ XỨ NGHỆ
QUẢNG CÁO

 
Trang chủ > Văn Nghệ > Văn thơ của bạn >
  Tùy bút Nguyễn Duy Xuân: TỔ QUỐC TRONG TRÁI TIM NGƯỜI LÍNH BIỂN Tùy bút Nguyễn Duy Xuân: TỔ QUỐC TRONG TRÁI TIM NGƯỜI LÍNH BIỂN , Người xứ Nghệ Kiev
 

  photo nh Nguyn Duy Xuacircn1_zpsegx5xcew.jpg

                           Nguyễn Duy Xuân

                          Sinh năm 1957

                                  Quê Xuân Lâm, Nam Đàn, Nghệ An

 Hội viên Hội VHNT Đak Lak, cán bộ giảng dạy trường sư phạm Đak Lak

Thơ đã xuất bản: Giọt nắng cao nguyên - NXB Hội nhà văn 2013; Sáu và Tám - NXB Công an nhân dân 2010; Tuyển thơ đất đứng - NXB Hội nhà văn 2011; Hà Nội và ký ức Điện Biên - NXB Hội nhà văn 2014; Đát nước tình yêu - NXB Văn hóa thông tin

Chưa bao giờ thơ ca viết về người lính biển lại nở rộ như hiện nay, nhất là sau những hành động ngang ngược của Trung Quốc đem tàu chiến, giàn khoan xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam hồi đầu tháng 5-2014. Ta bắt gặp ở đây những gương mặt quen thuộc của thi ca Việt Nam đương đại như: Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Việt Chiến, Đặng Bá Tiến, …; những gương mặt còn mới mẻ đối với người yêu thơ như Bùi Văn Bồng, Huệ Nguyên, Đỗ Thị Hoa Lý, Hồng Diệu…và cả những người trong cuộc đó là các chiến sĩ đang ngày đêm đối mặt với hiểm nguy nơi đầu sóng ngọn gió để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Sự đa dạng đó làm nên bức tranh nhiều sắc màu cho mảng thơ ca viết về người lính biển.

Thế hệ những người lính biển hôm nay vẫn tiếp nối truyền thống hào hùng của cha anh thời đánh Pháp, đánh Mỹ: khi tổ quốc lâm nguy, tuổi trẻ sẵn sàng xả thân vì sự trường tồn của đất nước:

H đã ly ngc mình làm lá chn 

Đ mt ln T quc đưc sinh ra 

H đã ly thân mình làm ct mc

Chn quân thù trên bin đo quê hương

                                            (T quc Trưng Sa - Nguyễn Việt Chiến)

Máu đã đ Trưng Sa ngày y

Bn tôi nm dưi sóng mn vùi thân

Nếu T quc neo mình đu sóng c

Nhng chàng trai ra đo đã quên mình

                                            (T Quc nhìn t bin, Nguyễn Việt Chiến)

Những người lính hi sinh trong trận hải chiến Gạc Ma năm xưa đã trở thành một biểu tượn đẹp cho tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường của dân tộc trong cuộc chiến đấu  bảo vệ và giữ gìn biển đảo quê hương:

nhng chàng trai mưi tám đôi mươi

ngc căng gió ôm cht c đ

chân cm đá như cc g Bch Đng

ch che cho bin đo quê hương

trưc bom đn quân thù xi x

máu các anh thm đ màu c

                                     (Các anh sng mãi trong lòng nhân dân – Nguyễn Duy Xuân)

Các anh đã tạc vào thế kỉ “dáng đứng Việt Nam” – hiên ngang, bất khuất trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng của đất nước:

Chưa bao gi khut phc lũ xâm lăng

Ngàn năm trưc và bây gi vn thế

Lòng dân ta vn vn nguyên hào khí

Ca Đng Đa, Như Nguyt, Bch Đng…

                                       (Bin nhng ngày này, Đặng Bá Tiến)

 Trường Sa - Biển Đông – nơi đầu sóng ngọn gió. Ở đó người chiến sĩ ngày đêm phải đối mặt với bao gian khó hiểm nguy. Tuy không có cảnh trèo đèo vượt suối “Ngàn thưc lên cao, ngàn thưc xung” hay “mưa dm cơm vt”… nhưng người lính nơi đảo xa lại có những thử thách mà đất liền không có. Sẽ là khập khiễng khi so sánh gian khổ mà thế hệ cha anh đã chịu đựng với gian khổ mà người lính biển phải trải qua hôm nay. Thời chiến tranh giải phóng dân tộc, đất nước vừa thoát khỏi đêm trường nô lệ, khó khăn thiếu thốn vật chất là lẽ đương nhiên. Người lính thời đó đã vượt qua với tinh thần nghị lực vô song. Có thể nói, ở thời kì ấy, cái gian khổ, thiếu thốn không dành cho riêng ai. Bởi thế, cả dân tộc mới chung một ý chí: “Không có gì quí hơn đc lp t do!” (Hồ Chí Minh); “…toàn đt nưc có mt tâm hn có chung khuôn mt” (Con mt Bch Đng, con mt Đng Đa, Chế Lan Viên), để rồi làm nên lịch sử mang tầm vóc thời đại: Điện Biên Phủ mồng 7-5-1954 và Đại thắng mùa Xuân 30-4-1975.

 Người lính hôm nay sống, chiến đấu trong một hoàn cảnh khác xa so với thời của cha anh. Đất nước hòa bình thống nhất, kinh tế xã hội phát triển, đời sống vật chất, đời sống tinh thần ngày một nâng cao. Cái gian khổ, thiếu thốn không còn ghê gớm như  xưa nhưng nó vẫn là thử thách đối với nghị lực con người. Nói thử thách vì đặt trong bối cảnh chung của xã hội, người lính biển phải chịu nhiều thiệt thòi. Trong lúc bạn bè cùng trang lứa yên tâm học tập nơi giảng đường đại học hay bằng lòng với công ăn việc làm ổn định, lo vun đắp tổ ấm gia đình, thậm chí có một bộ phận không nhỏ giới trẻ sa vào cuộc sống hưởng lạc thì những người lính vẫn ngày đêm đối mặt với gian lao, canh giữ biển trời tổ quốc. Mà đâu có phải bình yên gì. Biển Đông nóng bỏng từng ngày từng giờ. Bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra biến cố và khi ấy, chính các anh là những người đầu tiên phải đối mặt với hi sinh mất mát. Biết bao chiến sĩ đã ngã xuống từ sau 30-4-1975 đến nay trên mặt trận Trường Sa – Biển Đông?

Gian khổ mà người lính biển phải trải qua là môi trường sống khắc nghiệt giữa trùng dương đã được cây bút nữ trẻ tuổi Hồng Diệu khắc họa:

Trưng Sa ngày đông đang đi qua

Lnh thu da thu tht

Trưng Sa, h v nng trng tri đến l

Nóng rát thân ngưi, bun nhng du chân qua

                                                     (Nht kí trên sóng c, Hồng Diệu)

 Nơi đảo xa ấy, “Nhng lung rau xanh khó tươi vì thiếu nưc / Đt ít, khô cn, nng xi, mui mn hơi / Giông gió liên miên cun d sc ngưi / Rau không tt ba cơm ngưi khó nut.” (Thương lm Trưng Sa ơi, Hồng Diệu); và “Nơi đây gió lng bn b / ht tung chu cnh va kê trưc thm / lnh lùng là gió na đêm / nóng ran ngn gió ngang trin đo trưa… (Gió cát Trưng Sa, Bùi Văn Bồng)

Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của khí hậu đại dương, người lính biển khát khao cháy bỏng một cơn mưa:

Chúng tôi ngi trên đo Sinh Tn

Bóng đen sm như gc cây khô cháy

Mt đăm đăm nhìn v nơi y

Nơi cơn mưa thăm thm xa khơi ánh chp xanh lp loáng phía chân tri...

                                            (Đi mưa trên đo Sinh Tn, Trần Đăng Khoa)

 Một cơn mưa, dù rất nhỏ nhưng cũng đủ để làm mát cơ thể, làm dịu tâm hồn những người lính trẻ:

… Mưa đi ! Mưa đi ! Mưa cho mãnh lit

Mưa lèm nhèm chúng tôi chng thích đâu

Nhưng không có mưa rào thì c mưa ngâu

Hay mưa bi ... mưa li ti... cũng đưc

Mt chúng tôi nga lên hng nưc

Mt ht nh thôi cát cũng du đi nhiu...

                                            (Đi mưa trên đo Sinh Tn, Trần Đăng Khoa)

Nhà thơ Đỗ Thị Hoa Lý dù ở trời Tây (Ucraine) xa xôi nhưng vẫn cảm nhận được “cơn khát” của người lính nơi Trường Sa:

Trường Sa ơi bão tố bủa vây

Tán bàng vuông nhọc nhằn che chở

Ngọn rau xanh oằn mình diệp lục

Từng giọt chắt chiu cơn khát Trường Sa!

                                           (Tiếng gi Trưng Sa, Đỗ Thị Hoa Lý)

Nhưng có lẽ đấy chưa phải là thử thách lớn đối với người lính biển. Gian khổ thiếu thốn vật chất và sự khắc nghiệt của thời tiết, các anh có thể vượt qua, nhưng thiếu thốn tinh thần, tình cảm thì quả là một liều thuốc thử “đặc biệt” nhất là trong hoàn cảnh hiện tại như chúng tôi đã nói ở trên. Bài thơ Câu tr li cho tình yêu ngưi lính bin trong tôi của tác giả trẻ Hồng Diệu đã nói hộ người lính biển tâm trạng đó:

Cách bit xa xôi đt lin khó ti

Bao tâm tư ca ngưi lính mun gi

Cũng phi đành nh sóng trùng khơi.

Với những người lính đã có mái ấm gia đình, thử thách dường như còn tăng thêm một “cấp độ” nữa:

Có v ri cũng chu cnh chia đôi

Thèm hơi m nào đâu có ni

V sinh con cũng đành ch đi

Đến phép v mi thy ni mt con...."

                (Câu tr li cho tình yêu ngưi lính bin trong tôi, Hồng Diệu)

Nỗi nhớ đất liền, nỗi nhớ người thân luôn cánh cánh trong lòng người lính biển. Giữa muôn trùng sóng gió, có lẽ đây là điều làm nên điểm tựa vững chắc trong tâm hồn người lính để các anh luôn mài sắc cảnh giác, chắc tay súng bảo vệ biên cương. Một người lính trẻ đã viết những câu thơ thật xúc động:

Anh lính đo nh nhà

Thèm mùi thơm cơm nếp

Sóng bin v mn mòi

Lính đo hiên ngang dáng hình T Quc

                                    (Tình T quc, Phạm Hồng Thái)

Trong những ngày hè nóng bỏng (tháng 5-2014) trước việc Trung Quốc ngang nhiên  đem giàn khoan Hải Dương-981 xâm phạm vùng biển chủ quyền của Việt Nam, bài thơ “Tiếng bin” của một người lính xuất hiện trên Facebook đã tạo được sự đồng cảm của hàng triệu trái tim đối với những người lính nơi biển xa:

Hu phương đt lin yên tâm nhé v ơi

Cui tun v quê cho anh nhn đôi li

Thưa vi cha và thp hương khn m

Anh vn vng vàng nơi bin đo xa xôi...

Em hãy đưa đin thoi k gn nôi

Đ con chúng mình nghe tiếng ca bin khơi

Anh không th m bng ru con ng

Gi tiếng bin v yên gic con thôi...

                                             (Tiếng bin, Fb Người lính biển)

Trong tình cảm của người lính dành cho hậu phương, tình yêu đôi lứa có cung bậc nồng nàn cháy bỏng của tuổi hai mươi. Trần Đăng Khoa đã rất thành công về chủ đề này qua bài “Thơ tình ngưi lính bin” nổi tiếng từ những năm tám mươi của thế kỉ trước:

Đt nưc gian lao chưa bao gi bình yên

Bão thi chưa ngng trong nhng vành tang trng

Anh đng gác. Tri khuya. Đo vng

Bin mt bên và em mt bên.

Vòm tri kia có th s không em

Không hiu na. Ch có anh vi c

Cho dù thế thì anh vn nh

Bin mt bên và em mt bên...

                                           (Thơ tình ngưi lính bin, Trần Đăng Khoa)

 Bài thơ có giai điệu ngọt ngào, sâu lắng đã khơi gợi cảm xúc để người nhạc sĩ nổi tiếng Hoàng Hiệp viết nên ca khúc cùng tên lay động tâm hồn bao thế hệ thanh niên.

Lính đảo yêu cũng giản đơn lắm. Nơi trùng khơi không có chỗ cho sự nũng nịu, hoa hòe hoa sói:

Lính đo yêu thế, thương là thế

Ai dám thư tình gi nh thương

Không mng, chng game và đng chat

Xin mt con tem vi thư thưng.

                                     (Tình yêu lính đo, Bùi Văn Bồng)

Quà tặng người yêu của lính đảo cũng khác người:

Sau phiên gác, chân trn ra b cát

Tai nghe bin hát mt tìm hoa

Ln vào sóng bin xanh mn chát

Kiếm san hô ngũ sc làm quà

                                     (San hô đo đá, Bùi Văn Bồng)

Những người lính: “Tui đôi mươi lng lng bin tri / Mt trong vt chưa mt ln hò hn / Đêm mơ còn nũng nu gi “M ơi!” (Thao thc Trưng Sa, Nguyễn Thế Kỷ) đã vượt lên tất cả, chấp nhận gian khổ, hi sinh tuổi thanh xuân vì biển đảo quê hương. Dẫu tình yêu, nỗi nhớ đối với hậu phương da diết, trĩu nặng trong lòng nhưng các anh  nén lại, tạm gác tình riêng vì nghĩa lớn:

Thôi em đi ngày vui y đến

Còn bây gi bin ni sóng gm vang

Đng đi anh tt c đã sn sàng

Chc tay súng gi bin tri T quc

Tt c mt lòng hưng v phía trưc

Chuyn gia đình tm gác li phía sau

                                   (Tôi đng gia bin tri T quc, Nguyễn Xuân Quát)

Vâng, “chuyn gia đình tm gác li phía sau” khi “T quc gi tên mình”, người lính lại sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ thiêng liêng:

T quc gi ri... cha phi đi thôi

Con trai à, vic nhà nh con nhé

Vì cha biết... con rt mnh m

S là b vai cho m da thay cha...

Con trai à, cha phi ra đi

Vì bin Đông còn chưa nguôi sóng d

                         (Nếu mt mai cha không v na, Facebook “Tâm s ngưi lính bin”)

Người lính – người cha ấy nguyện làm tấm lá chắn cho đất nước và cho thế hệ tương lai:

Ba s dùng lng ngc ca mình đ chn sóng d bin Đông

Đ cho con đưc vui chơi cùng bè bn

Đ con đưc ưc ao mt tương lai sáng ln

Không phi ti nhc xen trong ni hn căm.

                                                         (Nói vi con gái, Hương Trang)

Nói đến chiến tranh là nói đến mất mát hi sinh. Trong bối cảnh hiện nay, chủ quyền biển đảo của tổ quốc đang bị ngoại bang nhòm ngó lấn chiếm, bất cứ lúc nào người lính biển cũng phải đối mặt với hiểm nguy. Đảo xa vì thế, luôn luôn là tuyến đầu Tổ quốc. Người lính biển hiểu rõ điều đó cho nên dẫu có lo lắng cho mẹ già, con thơ hay thương nhớ một bóng hồng, các anh vẫn kiên định tinh thần, cái tinh thần của cha anh một thuở: “Chiến trưng đi chng tiếc đi xanh” (Tây Tiến, Quang Dũng):

Nghn ngào chào m ra đi

M nuôi con ln chưa gì báo ân

Nhưng m ơi… T quc cn

Đi trai bao lp hiến dâng thân mình.

                                        (Tiếng gi ca bin, Facebook “Lính bin Vit Nam)

 Bin gi! Nhng chàng trai mưi chín đôi mươi chng th nào yên:

con chng th ngi yên ngày rách nhng thân tàu

bn con giành git tương lai cho các em mình trên đu mũi đn

máu vn chy mn đưng cong ch S

con có th ngi yên?

                                                     (Bin gi, Hu Nguyên)

Bi thưa M, chúng con cũng như c dân tc này đã quyết:

không th đi bò liếm bin

vn vòi rng không hiếp ni con cháu Lc Long Quân

                                                     (Bin đo ta ơi, Nguyn Đc Khn)

Các anh sẵn sàng hiến dâng cho vẹn toàn đất nước, cho “T quc gia trùng khơi sinh n, trưng tn.” (Thao thc Trưng Sa, Nguyễn Thế Kỷ)

Bởi thế, dù cách xa đất liền vời vợi, dù đảo nhỏ như hạt cát giữa trùng khơi, người lính biển vẫn không bao giờ cảm thấy cô đơn:

Đêm Trưng Sa không lng l

Ngưi chiến s đi tun luôn có bin bên

                                        (Đêm Trưng Sa, Đỗ Thị Hoa Lý)

 Thậm chí còn rất lãng mạn:

Anh đng gác. Tri khuya. Đo vng

Bin mt bên và em mt bên.

                                           (Thơ tình ngưi lính bin, Trần Đăng Khoa)

Đằng sau các anh là cả một hậu phương bao la “M T quc vn luôn bên ta” (T quc Trưng Sa, Nguyễn Việt Chiến) và 90 triệu con tim tiếp thêm sức mạnh cho các anh vững vàng nơi biển đảo xa xôi:

Anh lên đưng ra gi bin bình yên

Gi non sông và gi ly ch quyn

Em nơi này luôn trao trn nim tin

Nim t hào và tình yêu lính bin

                                          (T hào Hi quân nhân dân Vit Nam, Đoàn Ngọc)

Trong tim mỗi người con đất Việt, Trường Sa không xa, Trường Sa gần lắm! Trường Sa mãi mãi trong lòng Đất Nước, trong tâm hồn người lính biển, trong tình yêu lứa đôi:

Không xa đâu Trưng Sa ơi !

Không xa đâu Trưng Sa ơi !

Vn gn bên em vì Trưng Sa luôn bên anh

Vn gn bên anh vì Trưng Sa luôn bên em

                                             (Gn lm Trưng Sa, Huỳnh Phước Long)

Ai đó bảo, thơ viết về biển đảo chưa nhuyễn, chưa có chiều sâu. Điều đó có thể đúng nhưng tôi nghĩ cái cốt lõi ở đây là nó đã nói lên được tiếng nói của cộng đồng ở một thời điểm mà đất nước đang đối mặt với nhiều thử thách. Thơ ca không thể cứ sống mãi trong ánh hào quang của quá khứ hay co mình lại trong cái tôi chật hẹp suốt ngày ngâm ngợi vịnh ca mà phải dám đối mặt với cuộc sống để nói lên tiếng nói lương tri con người.

Thơ viết về biển đảo nói chung và về người lính biển nói riêng trong thời gian gần đây, nhất là từ sau sự kiện Trung Quốc hạ đặt dàn khoan trái phép trên vùng biển Việt Nam, thể hiện tính chân thực, mang hơi thở của cuộc sống và tình yêu đất nước quê hương. Đọc những vần thơ ấy, chúng ta linh cảm được cái thiêng liêng từ sự hi sinh của người lính để “Thêm mt ln T quc đưc sinh ra” (T quc Trưng Sa, Nguyễn Việt Chiến).

                                        Nguyễn Duy Xuân

Nguồn: Tạp chí Văn Mới 7/6-2015

toasoanvanmoi@gmail.com

BBT Báo nguoixunghekiev.vn, ngày đăng 10/7/2015


  Các Tin khác
  + Tháng giêng non thương mùa nắng hạ (19/09/2024)
  + Những hàng thông lặng im (19/09/2024)
  + MẮT TRĂNG (19/09/2024)
  + LÒNG TỰ TÔN (01/08/2024)
  +  CHUYỆN O NẬY (31/07/2024)
  + THÁNG BẢY VỀ.. (25/07/2024)
  + MÙA HOA GẠO (25/07/2024)
  +  TRƯỚC KHI QUÁ MUỘN (25/07/2024)
  +  NHẶT MẸ VỀ NUÔI (25/07/2024)
  + HÀNG THẢI (31/05/2024)
  + NỖI ĐAU BỊ LỪA DỐI. (31/05/2024)
  + VÙNG KÍ ỨC TRẮNG (30/05/2024)
  + Dưới ánh sương mai (26/05/2024)
  + VẰNG VẶC CHỮ TÂM (Thơ BÙI NGỌC BÍCH) (19/02/2024)
  + ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY Thơ Trần Huy Liệu Lời bình Bùi Ngọc Bích (19/02/2024)
  + GIÓ MÙA (02/11/2023)
  + TẢN MẠN CUỐI THU (02/11/2023)
  + Truyện ngắn. MỘT KIẾP NGƯỜI. (02/11/2023)
  + DỊU DÀNG MÙA THU (04/09/2023)
  + Thơ Nguyễn Hữu Quý - ĐÃ TỚI MÙA ĐÔNG (11/11/2022)
Playlist

GIỚI THIỆU
QUẢNG CÁO
Thống kê
Guests online: 2
Total: 65171416

 
 
 
Người xứ nghệ Kiev
Designed by July