Ảnh minh họa - Internet
(Kính dâng linh hồn Nhà giáo, Nhà thơ Nguyễn Trọng Bính)
Đặng Hữu Trung
Xin gọi tên nhau như trước, Trọng Bính (1) ơi!
Mấy chục năm trời đã quen như vậy
Cùng sinh ra nơi quê nghèo, nắng cháy
Thạch Tiến - Thạch Minh, bãi cát trắng tinh.
Nhớ lần đầu gặp nhau xem phim
Tuổi lớp bốn - trẻ con hiếu thắng
Lý, Hồng với Đậu Đa, Bình, Bính
Đùa vài câu nên suýt nữa đánh nhau
Trung cùng đi, chứng kiến từ đầu
Đứng giải hoà và biết nhau từ đó.
Như đàn chim chung cây làm tổ
Ngọc, Tiến, Minh - ba xã một lớp Năm
Lại gặp nhau dưới một mái đình
Là lớp học cạnh hòn Núi Đất.
Mặc nắng lửa, mưa dầm, gió bấc
Đường sống trâu Thạch Ngọc vẫn coi thường!
Mùa thu sau, đổi địa điểm trường
Về cơ sở Miếu Nen, Thạch Tiến
Tiếng phi lao rì rào trò chuyện
Như chúng mình kết bạn tâm giao.
Dịp Tết, Hè ta đến thăm nhau
Ăn cá trích với bánh đa chợ Gát...
Vui học hành, thời gian thắm thoắt
Tốt nghiệp cấp Hai, mỗi bạn một nơi
Vào cấp Ba, cả lớp được ba người
Trung, Bính, Kỷ cùng trường nhưng khác lớp.
Hai chúng mình trọ nhà anh Cu Chước
Cùng với Tam hai tấm phản nằm chung.
Nhớ những đêm lạnh buốt mùa Đông
Đắp chiếu mỏng ôm nhau như thìa úp
Người nằm giữa được cho là "sướng nhất"
Vì không lo chiếu kéo hụt một bên.
Ngày cuối tuần "đến hẹn lại lên"
Cuốc bộ đi-về ba mươi cây số
Dép cao su vẹt mòn đường Quốc lộ
Ruột tượng đeo sờn áo cả hai vai.
Bữa ăn thường cơm độn sắn, khoai
Đĩa muối vừng, bát canh rau muống
Những bữa sang - bắt được dam ngoài ruộng
Hay cá ve chợ Tỉnh ế mua về.
"Chuyện thật như đùa" rất nhiêu khê:
Mua nồi nấu cơm nhầm ấm bù nấu nước (2)
Thật buồn cười cho anh Cu Chước
Tưởng vợ mình om nước chè xanh
Đi làm về, gọi hàng xóm xung quanh
"Mời bà con sang nhà tui uống nác!"
Mở vung ra, giật mình ngơ ngác
Sao nước chè lại hoá ra cơm?
Mọi người cảm thông, bảo đó chuyện thường
Nồi các chú học trò có khác
Cũng như ta uống nác chè bằng bát
Các chú dùng ca nhựa đó thôi!
Chiếc chõng tre tràn ngập tiếng cười
Nhưng từ đó không ai còn nhầm nữa.
Nhớ một hôm quét lá tre nhóm lửa
Đã quá trưa mà cơm vẫn chưa sôi
Đói lả đi, tôi nằm vật bên nồi
Anh đút rau vào mồm thì tỉnh lại.
Càng khó khăn càng sẻ chia, thân ái
Động viên nhau công tác, học hành
Đèn dầu khuya luôn sáng góc nhà tranh
Bóng đọc sách chập chờn bên bếp lửa
Ôn luyện thi dưới cột đèn ngoài phố
Nhờ ánh điện đêm, thoả sức học bài.
Luôn nhắc nhau gian khổ chớ lùi
Gắng học tập đáp đền ơn cha mẹ!
Phan Đình Phùng, học sinh nhiều thế hệ
Làm vẻ vang truyền thống của trường...
Những tin vui dồn dập ở tiền phương
Bình Giã, Núi Thành,...quân ta thắng lớn.
Mỹ tăng cường ném bom Khu Bốn
Xung quanh trường chi chít hố phòng không.
Có nhiều đêm cùng bộ đội thức ròng
Đào công sự, kéo pháo vào trận địa.
Ngày Hai Sáu tháng Ba năm Ất Tỵ (1965)
Cầu Phủ-Rú Nài giòn giã lập chiến công
Năm giặc trời hoá đuốc lửa trên không
Khi đến giội bom dàn Ra đa giả
Dân Hà Tĩnh hởi lòng hởi dạ
Xứng quê hương Xô Viết anh hùng.
Sau mít tinh mừng chiến công chung
Thầy cùng trò lên đường đi sơ tán
Rời Thị Xã về Thạch Xuân dựng lán
Lớp học ẩn mình dưới bóng tre xanh.
Anh và tôi ở nhà bác Cu Thanh
Tuy đông con, nghèo nhưng tốt bụng
Có cá, tôm bắt được từ ngoài ruộng
Mớ khoai lang, rau muống bác đem cho.
Thứ Bảy nào cũng mong học hết giờ
Tranh thủ thời gian về nhà lấy gạo.
Nhớ một lần lụt to, gió bão
Nước ngập làng, ngập lán, ngập đồng
Nhà trường cho nghỉ học, tránh phòng
Hai đứa vẫn lao về Thạch Tiến.
Cây cầu khỉ lung lay rung chuyển
Nước dưới sông cuồn cuộn bất thường
Anh cầm que đi trước dò đường
Bỗng tụt chân rơi tòm xuống nước
Nhờ áo tơi mới trôi mấy thước
Bám cành cây lội được lên bờ.
Thoát nạn rồi nhưng vẫn thấy lo
Sợ gia đình nặng lời trách mắng
Nhưng mọi chuyện "sóng yên biển lặng"
Trời hết mưa hai đứa lại tới trường.
Thạch Xuân gần Thạch Điền, Thạch Hương
Đoàn Thanh niên mở phong trào trồng sắn
Khi thu hoạch, so công lao chẳng đáng
Nhưng rất vui vì được "điểm thi đua".
Rồi một ngày bom Mỹ giội bất ngờ
Cháy mấy nhà dân, vài người thiệt mạng
Bất chấp hiểm nguy, thầy trò không nản
Vẫn ngày ngày giải toán, bình thơ.
Mùa Thu đi, lại đến mùa Thu
Kỳ tốt nghiệp lớp Mười đã đến
Cả hai đều "Học sinh Tiên tiến"
Cổng trường đại học đẹp như mơ...
Giấy báo tuyển sinh, rẽ đôi bờ
Tôi ra nước ngoài, anh vào sư phạm.
Ngày chia tay chuyện trò tới sáng
Bịn rịn hoài, chẳng muốn xa nhau
Trong chiến tranh ai biết được đâu
Nhưng vững tin ở mình ở bạn.
Đại học Vinh những ngày sơ tán
Sau bốn năm, anh tốt nghiệp loại ưu
Được Nhà trường giữ lại dạy Ngữ văn
Chúng mình gặp nhau, năm Bảy Mươi về phép.
Sau nghỉ hè tôi đi học tiếp
Anh lại về với giáo án, giảng đường.
Vì Miền Nam, Tổ quốc yêu thương
Xếp bút nghiên lên đường làm chiến sĩ.
Nhận thư anh từ Chiến trường Quảng Trị
Với tấm hình ngồi trên xe tăng.
Ở chiến trường vẫn nối nghiệp văn
Vũ khí-khẩu AK và cây viết
Đời người lính đạn bom khốc liệt
Anh đã từng vượt "Dốc Răng Cưa" (3)
Đánh Thượng Đức tháng Tám, Bảy Tư (8.1974)
(Có Nhật ký - thơ anh còn lưu giữ) (4).
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
Chiếm Long Thành, Cát Lái, Biên Hoà
Trưa Ba Mươi Tháng Tư rợp bóng cờ, hoa
Có mặt anh trong Dinh Độc Lập.
Sang Phnôm Pênh diệt quân Pôn Pốt
Trong đội hình Binh đoàn Hương Giang.
Khi hoàn thành sứ mệnh vẻ vang
Về đóng quân ở Cố đô mỹ lệ
Chiều tối vui bên đàn con trẻ
Giúp vợ hiền, bù đắp tháng năm xa.
Nghệ Tĩnh tách chia, anh về Tỉnh đội nhà
Là Đại tá - Nhà thơ - Nhà báo.
Chúng mình lại như đôi chim sáo
Thường cùng nhau trao đổi chuyện trò...
Những năm hưu, anh vẫn còn lo
Mẹ ở Việt Xuyên, vợ con trong Huế
"Một chốn đôi nơi" tính sao cho xuể?
Ba trăm cây phóng xe máy đi, về...
Rồi anh lâm bệnh nặng, ra đi
Nghe tin dữ lòng tôi tê tái
Thôi, mai đây chẳng còn gặp lại
Người bạn thân từ thuở ấu thời
Nghẹn lòng kêu hai tiếng "Bính ơi!"
Trời nước Nga tuyết rơi như nhỏ lệ
Nhưng ở quá xa (5) tôi không thể
Tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Buổi trưa nay, tháng Sáu nắng như nung
Đồi cây Phú Bài, gió Lào thổi rạc
Nấm mồ anh phủ đầy sỏi cát
Như ở quê đất khát, xã Việt Xuyên.
Chén rượu nồng, hoa quả, thuốc... bày lên
Thắp nén nhang viếng Người đã khuất
Cầu cho anh linh hồn siêu thoát
Lòng bồi hồi nhớ lại kỷ niệm xưa...
Trong nhớ thương viết mấy vần thơ
Về Bạn tôi, Một Con Người Xứ Nghệ.
Huế - Hà Tĩnh, tháng 6 năm 2012
ĐHT
(1)- Đại tá, Nhà thơ Nguyễn Trọng Bính, cựu học sinh PTC/3 Phan Đình Phùng, Hà Tĩnh (niên khoá 1963-66), nguyên giảng viên khoa Văn Đại học Vinh, sinh ngày 27.10.1947 tại xã Việt Xuyên (có thời gian gọi Thạch Minh), Thạch Hà, Hà Tĩnh; mất ngày 01.4.2010 (17.2 Al); đã in 9 tập thơ, 4 sách bút ký văn học và từng là phóng viên chiến trường, cán bộ tuyên huấn trong quân đội.
(2)- Đều là nồi đất nung, rất khó phân biệt nhưng ấm bù hình quả bù (quả bầu) có cổ dài hơn nên thường dùng để nấu và om nước chè xanh.
(3)- Ở Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế (trong bài thơ "Dốc Răng Cưa", 27.10.1972 của Nguyễn Trọng Bính).
(4)- Bài thơ Thượng Đức (7.8.1974) trong Trường ca "Nhật ký dòng sông" của Nguyễn Trọng Bính, Tập thơ chọn "Tôi ơi!" (NXB Hội Nhà văn, 2008).
(5)- Khi nghe tin anh Nguyễn Trọng Bính mất tôi đang công tác ở ĐSQ VN tại Mát-xcơ-va
|