Nghi thức chung: nhà nào có người mất, báo Trưởng tộc đến chủ trì, chọn 1 nhóm dâu rể đến túc trực - rồi phát tang.
Chết, rất kiêng kỹ ngày “mão” đó là ngày con Ong, ngày vất vả - nếu chết vào ngày này là phải đắp chiếu coi như còn sống (Kiểu ở xuôi để cưới chạy tang) chờ hôm sau mới coi là “chết”. Ngoài ra còn kỵ ngày Hợi, phải đợi giờ Dần làm giờ chết để trị các loại ma (phí).
Sau khi tắt thở: con cháu vuốt mắt, tắm nước lá thơm, thay quần áo mới nhất rồi khâu vài đồng bạc trắng vào cổ áo (khót ngân khót có sửa) và vào 2 mông quần, khâu phía đầu mảnh vải căng trên cây nêu (co cao) ngoài mộ.
Cây nêu làm bằng cây tre cao 5-7 mét dựng hướng về Nậm toóc tát (thác đầu nguồn) có cành ngang để treo áo người quá cố (đàn ông áo đỏ, đàn bà áo dài) trên dọc cây nêu có dải vải màu trắng và đen ở giữa có mảng thổ cẩm, đối với người già, dải vải dài 7 xải, tuổi trung niên 3 sải rộng 1 gang tay, đó là cờ ma (mạng lỉu heo). Trên cây cao buộc con ngựa gỗ “ngày về trời theo cánh ngựa bay”, hướng về đầu thác nước để hồn có ngựa cưỡi bay về trời. Bên cạnh cây nêu buộc 1 máng nứa có thóc có cỏ cho ngựa (gỗ) ăn. Riêng hồn người thì không phải đem theo thức ăn vì đã có ông thầy Mo cúng bái “làm tang” (dẫn nhập hồn vào Mường ma) “Pết cáy Xam háp bung, Xam háp khẩu nặm pay toi” (gà vịt 3 gánh, cơm nước 3 gánh đem theo nồi).
Cây nêu bên mộ sau 1 tháng tự đổ là điềm tốt nghĩa là hồn đã về trời (người kinh là sau 49 ngày cúng cơm) chưa đổ là gở với gia chủ, nên do đó khi chon cây nêu phải chọn người biết làm, gần gũi với tang chủ.
Khi khâm niệm (cộn pang) phải có 2 mảnh thổ cẩm lót dọc 2 sườn xác - quần áo buộc dọc xác và có dây buộc hộ tro hỏa táng (sai chaư). Mỗi con đẻ có 1 bộ quần áo để vào cái “sa” đặt bên quan tài, con dâu thì mỗi người 1 dải vải trắng vắt buông phía trên quan tài, con trai được đứng trước ngực người quá cố, con gái ngồi ngang thân quan tài, con dâu đội khăn chóp trắng, áo đen dài, khẩu vải thổ cẩm đỏ vào tà áo ngồi phục bên cửa vào của nhà sàn.
Không được đến gần nơi quan thi hài. Khách viếng, con dâu ngồi phục cảm ơn tiễn khách, cơm trưa và chiều cúng thủ lợn, 4 chân, tim gan, rể phải đưa cỗ vào cúng bố mẹ vợ, không có thì cháu rể thay, cỗ có 3 mâm, mâm gạo và hoa quả, mâm vịt luộc, mâm lợn luộc: mỗi mâm có 4 chén nước, 6 chén rượu và 50 xải vải trắng gấp gọn đặt trên 1 thang tre, con rể cả khấn “ông, bà đi, chúng tôi con cháu đã lo được mâm cỗ, xin nhà ngoại nhận cho”.
Sau đó trải tấm vải trắng lên quan tài, trên đó có những miếng vải nhỏ như đuôi cá viết chữ Thái kể công đức người quá cố, cầu mong ông (bà) phù hộ. Xong xuôi bên rể nâng vải lên đầu làm cẩu cho hồn đi qua tới khi ông mo đọc hết bài cúng.
Sau khi viếng, cúng…đem thi hài đi hỏa tang. Xác được bó vải đặt trên 1 cái kiệu tre khiêng ra gò đất cao cạnh Paheo (nghĩa địa - rừng ma) chất củi xung quanh đổ thêm dầu hỏa rồi châm lửa đốt, tro xương cho vào 1 chum nhỏ đem chon vào huyệt mộ…
Tục ngữ có câu “cốc cồ lộn báư bên/ vên tai báư hụ” (không tự nhìn thấy gáy mình/ ngày chết không ai biết trước), sinh có hẹn, tử bất kỳ là vậy!
Theo Nguyễn Khôi