Người Thái ở Sơn La, trước 1962 (tái lập tỉnh) coi như chiếm số đông nhất. Thời phong kiến tầng lớp quý tộc, thầy mo đều được học hành, có chữ nghĩa…nên Phìa Tạo và con em họ thường vừa là chức sắc (hay sẽ làm chức sắc) vừa là trí thức ở địa phương.
Thời Lê Trịnh, triều đình đặt chức “phụ đạo” để cái quản các Châu Mường.
- Châu Phù Hoa (Phù Yên): Phụ đạo là Cầm Nhân Đôi, sau con là Cầm Nhân Cai kế tập.
- Châu Mộc; phụ đạo là Xa Văn Phấn (tổ tiên là Xa Khả Tham, làm quan Đại tư mã hồi đầu nhà Lê).
- Châu Mai: Phụ đạo là Hà Công Ứng, sau con là Hà Công Bình kế tập.
- Châu Mai Sơn: Phụ đạo Cầm Nhâm Tuần
- Châu Sơn La: Phụ đạo Cầm Nhân Mang.
- Châu Thuân: Phụ đạo là Bạc Cầm Chính.
- Châu Quỳnh Mai: Phụ đạo là Điêu Chính Thiêm.
- Thời xã hội chủ nghĩa (sau 1955…) về tri thức ở Sơn La nổi bật có
1/ - Gia đình nhà thơ Cầm Biêu vốn là thầy giáo, sau làm trưởng ty văn hóa, em trai là Phó giáo sư - Tiến sỹ Cầm Cường, giảng viên Đại học tổng hợp Hà Nội, ông có nhiều công trình giá trị về Dân tộc học. Em trai là: Đạo diễn nổi tiếng Cầm Kỷ với các film “Chom và Sa”, “Trở về Xam Sao”.
Con trai là Tiến sĩ ngành ngân hàng Cầm Kiên, phó giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
2/ - Nhà dân tộc học Cầm Trọng: với tác phẩm nổi tiếng “Người Thái ở Tây bắc Việt Nam” và nhiều tác phẩm khác.
3/ - Hoàng Nó (Cầm Văn Lượng) - nhà giáo nhà thơ - làm tới chức Bí thư tỉnh ủy Sơn La, ủy viên trung ương Đảng CSVN.
4/ - Cầm Ngoan: Phó chủ tịch khu, chủ tịch UBHC Nghĩa Lộ, Sơn La, phó chủ tịch Quốc Hội.
5/ - Cầm Liên (Cầm Văn Yêu) - Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La
6/ - Nhà văn Sa Phong Ba (Sa Viết Sọi) sinh 1948, Thái ở Cao Đa (Bắc Yên) Hội Viên Hội nhà văn Việt Nam, có nhiều truyện ngắn đặc sắc.
7/ - Điêu Chính Ngâu, Thái trắng Quỳnh Nhai, dịch đầu tiên ra tiếng phổ thông “Sống chụ son sao” (Tiễn dặn người yêu).
8/ - Nhà thơ Cầm Hùng (1945) quê Chiềng Xôm (Thị xã Sơn La) thượng tá, chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Sơn La.
9/ - Nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian Hoàng Trần Nghịch (1934) quê Sông Mã, đại học, có nhiều tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu dịch thuật.
10/ - Nhà thơ Lò Vũ Vân (1943) Thái, Noong Đa (Bắc Yên).
11/ - Họa sĩ Lò An Quang (Bản Cọ, TX)
12/ - Nhạc sĩ Cầm Bích
13/ - Nhạc sĩ Cầm Minh Thuận (1944) Phù Yên, có “giao hưởng bài ca Tây Bắc” “Liên khúc tiễn dặn người yêu”.
14/ - Nhà thơ Vương Trung (Lường Vương Trung) Mường É, Thuận Châu - 1938 - Hội viên hội nhà văn VN.
Tác phẩm: Ing Éng (thơ), Mối tình Mường Sinh (tiểu thuyết), dịch Táy Pú Xấc, Chương Han.
15/ - Nhà thơ Lò Văn Cậy (1928-1994) quê Sốp Cộp (Sông Mã) Hội viên hội nhà văn Việt Nam. Có tuyển tập thơ Lò Văn Cậy.
16/ - Nhà thơ Lò Văn E (1933-1995) quê Sốp Cộp.
17/ - Phó giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Lương (1944) Thái Phù Yên, chủ nhiệm bộ môn Dân tộc học, khoa sử Đại học Quốc gia có nhiều công trình về dân tộc học.
18/ - Nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa (nữ, hát)
19/ - Phát thanh viên VTV1 Cà Kỳ Vọng (Người bản Phiêng Ngùa).
Đặc điểm: Các quan chức ở Sơn La xưa và nay đứng đầu bản Mường, xã, huyện, tỉnh thường là trí thức người bản địa (Thái, Mèo), có uy tín với nhân dân, có năng lực quản lý (cai trị) có tín nhiệm với trung ương.
Từ sau khi tái lập tỉnh các vị như Hoàng Nó (Bí thư tỉnh ủy), Cầm Liên (chủ tịch UBND tỉnh), Cầm Ngoan (Chủ tịch UBND tỉnh Kiêm phó chủ tịch Quốc hội), Thào Xuân Sùng (HMông, Bí thư tỉnh ủy), Tòng Thị Phóng (Bí thư tỉnh ủy rồi là ủy viên Bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội), Lù Văn Que (phó chủ tịch UBND tỉnh, thứ trưởng UB dân tộc của chính phủ); các tướng như Lò Văn Nhài, Cầm Xuân Ế…, các anh hùng liệt sỹ như Lò Văn Giá, Chu Văn Thịnh là những tấm gương tiêu biểu, niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Sơn La qua 2 cuộc kháng chiến và xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp.
Theo Nguyễn Khôi
|