SƠN LA KÝ SỰ
Bài 20:
SÔNG ĐÀ HÙNG VĨ
* “Nặm Té hảnh to thú chắng lứm
Sông Đà cạn bằng chiếc đũa, hãy quên”
* Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu.
Sông Đà (Nậm Te), còn gọi là Sông Bờ hay Đà Giang, Hắc Giang là phụ lưu lớn nhất của Sông Hồng, bắt nguồn từ Vân Nam (TQ) chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi 983km), bên TQ gọi là Lý Tiên Giang do 2 nhánh Bả biên Giang và A Mặc Giang hợp thành…được dịch ra tiếng Châu Âu là sông Đen: Black Rive (Ave), Rivière Noire (Pháp).
Đoạn bên TQ dài 400km từ núi Ngụy Bào, ở huyện tự trị người Di, người Hồi Nguy Sơn phía Nam Châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý chạy theo hướng Đông Nam qua Phổ Nhĩ.
Đoạn bên ở Việt Nam dài 527km (có tài liệu ghi 543km), bắt đầu từ huyện Mường Tè (Lai Châu) qua Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình tới huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) bên kia là Ba Vì (Hà Tây cũ). Điểm cuối là ngã ba sông Hồng Đà ở huyện Tam Nông (Phú Thọ). Sông Đà cung cấp 31% nước cho sông Hồng.
- 1994 - nhà máy thủy điện Hòa Bình, có công suất 1920 MW (8 tổ máy).
- 2005 - khởi công thủy điện Sơn La 2400 MW - xong vào 2012, sẽ tiếp ở Lai Châu. Hồ Sơn La dung tích 9,26 tỉ mét khối nước.
Sự hùng vĩ của sông Đà, đó là những ghềnh thác dữ dằn gầm thét âm vang giữa 2 bờ vách đá dựng đứng, như nỗi thù hận nghìn đời giữa trời và đất để hung dữ, để tàn phá, để nhấn chìm tất cả.
Năm 1958 Nhà văn Nguyễn Tuân đi thực tế đến với sông Đà, Ông đã ghi lại những cái tên và tính nết của một số thác trong số 73 cái thác có tên trên sông Đà về từ biên giới Việt Trung tới thác Bờ (Hòa Bình):
“Cách biên giới TQ phía Vân Nam khoảng mười cây số là thác kẻnh mỏ trên”. Rồi đến thác La Sa, Hát Vá, Mằn hi, Mằn Lay. Rồi thác Hát Nhạt, Mằn thẳm, Hát No Héo, Kẻng mỏ dưới. Rồi đến Hát Lai ở trên thị xã Lai Châu (Mường Lay) độ 9km.
Thuộc thủy phận Sơn La là các thác: Hát pi, hát soong pút, hát soong mon, hát pố, hát kếnh, hát chan, hát moong, hát tiếu; qua hát tiếu (tiếng Thái chữ hát = thác) “qua hát tiếu, rải chiếu mà nằm” coi như về cơ bản đã qua những chỗ nguy hiểm.
Từ Vạn Yên tới Hòa Bình lại xuất hiện một số thác tuy có bớt hùng dữ hơn ở phía trên Lai Châu, Sơn La…đó là những “ga” nước trên sông Đà:
Thác Ẻn, Thác Giăng, Bãi chuối, Mó sách, Bãi lời, Bãi lành, mó tôm, mó nàng, Nánh kẹp, Quai chuông, Tà phù, Bãi nai, Ba hòn gươm, phố khủa, gềnh đồng, suối bạc, ổ gà, bái nhạp, cánh cuốn, mèo quen, hang miếng, quần cóc, suối trong, bãi ban, riềm, thác rút, thác mẹ, bãi thằng rồ, mó tuần, suối hoa, hót gió, thác Bờ…
Sau khi các đập thủy điện hoàn thành, tất cả các gềnh thác được nhấn chìm xuống đáy hồ sông Đà mênh mông chia 3 khúc: hồ Hòa Bình (từ thác bờ - Hòa Bình tớ tạ bú - Sơn La) rồi từ đập Pả Vinh - Ít ong (Mường La) tới Nậm nhứn Mường Nhé - Mường Tè - Lai Châu…
Từ thời Lê, trong “kiến văn Tiểu Lục”.Bảng nhản Lê Qúy Đôn (1723 - 1872) đã viết: “Thác Bờ ở địa phận Động Dĩ Lý và Hào Tráng thuộc Mộc Châu”,như 1 ngọn núi đứng sừng sững giữa dòng là sông Đà, đá lớn lởm chởm, hàng năm cứ đến ngày 8 - 4 từng đàn cá ngược dòng nước bơi lên, chỉ có vài con cá chép khỏe là vượt được thác bờ (cá vượt vũ môn).
Sách “Giao Châu ký” của Tăng Cổn (cuối thế kỷ 9) nhà Đường đô hộ Giao Châu (Tiết độ sứ) - có ghi về sông Đà “có Long Môn”, nước sâu trăm tầm, cá lớn vượt lên được chỗ này sẽ hóa rồng.
Trong sách “Sơn đường tứ khảo” gồm 228 quyển và bổ di 12 quyển … Bành Đại Dực (nhà Minh) biên soạn có chép “sông Long môn ở huyện Mông (Yên Lập - Phú Thọ) phủ Gia Hưng, nước An Nam phát nguyện từ Châu Minh Viễn (Vân Nam), nước sông chảy đến đây, 2 bên bờ cao vót, hiểm trở, tảng đá lớn chắn giữa sông chia làm 3 dòng, sức nước vọt lên cao đến vài trượng, nghe ầm ầm như sấm, thuyền đến đây phải kéo lên bờ mới qua được”.
Sườn núi động Hào Tráng ở về phía bờ trái, có khắc 2 bài thơ (ngự thơ) của vua Lê Thái Tổ đi đánh Đèo Cát Hãn:
Lê Quý Đôn dịch:
“Gập gềnh đường hiểm chẳng e xa,
Dạ sắt khăng khăng mãi đến già
Lẽ phải quét quang mây phủ tối,
Lòng son san phẳng núi bao la.
Biên cương cần tính mưu phòng thủ
Xã tắc sao cho vững thái hòa
(Hư đạo nguy than tam bách khúc
Như kim chỉ tác thuận lưu khan)
“Ghềnh thác ba trăm” lời cổ ngữ
Từ nay xem chẳng nổi phong ba”.
Viết tại ngày tốt, tháng mạnh hạ (tháng tư) năm Thuận Thiên thứ 2 (1429).
“Đường lên mường Lễ (Lai Châu) bao xa 170 thác, 130 ghềnh”
- Ca dao
Cử nhân, thượng thư Phạm Thuận Duật (1825 - 1885) năm 1855 làm tri châu Tuần giáo (lúc ấy thuộc Sơn La, tỉnh Hưng Hóa trong sách “Hưng Hóa ký lược” có chép).
“Châu Đà Bắc ở xã Hào Tráng có bến Vạn Bờ tức sông Long Môn, cùng gọi là “đê long thủy”. Tục truyền rằng đây là nơi “cá vượt vũ môn” hóa Rồng.
Hai bên đá chốc đứng, chặn ngang cửa sông, ở giữa có một chỗ đá bị đục thủy (do nước xói mòn) gọi là Ao Vua, đó là nơi vua Lê Thái Tổ đề thơ (1429).
Theo tác giả Anh Đức trong bài “xuôi dòng Đà giang trước lúc ngăn sông”, tạp chí Suối Reo - Sơn La 5/2004 thì:
“Từ thị xã Lai Châu cũ (Mường Lay) muốn xuôi xuống Quỳnh Nhai, ít nhất phải ngồi thuyền trên 200km, vượt qua trên 10 thác hung dữ với những cái tên hãi hùng như thác Ba Bố, ghềnh Ba Cô, thác Bà Đái, hòn Chông, ghềnh chém sóng… thử thách đầu tiên là thác Ba Bố mùa lũ. Tuy các dải đá ngầm có bớt nguy hiểm nhưng những con sóng lại cực lớn, dập từng cơn táp mạnh vào mạn thuyền, con thuyền liên tục xô nghiêng chao đảo. Người chưa quen đi sông nước bao giờ thì lúc đó coi mặc cho số phận, còn những người từng trải thì thêm 1 lần trải nghiệm. Qua hết nghềnh thác, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Đi từ sáng tới hơn 2 giờ chiều đến được bản Huổi Ca, xã Nậm Mạ, huyện Sìn Hồ (Lai Châu).
Rồi tiếp tục xuôi qua: Nậm Lốt, Pờ răng ky của đồng bào Dao, xã Nậm Hăn (Sìn Hồ), rồi tới Pắc Phạ, Pắc Na của đồng bào Hà Nhì, Thái trắng xã Tủa Thàng (Tủa chùa)…
Vào đất Sơn La là bản cũ xã Cà Nang (Quỳnh Nhai) của đồng bào La Há hiện dưới cánh rừng ven suối. Qua huyện lỵ Quỳnh Nhai: Thuyền ghé qua các bến Pá Uôn (nay có cầu), Chiếng Bằng, Văn Pán, Nậm Giôn, Nậm Mu, Liệp Tè…
Thác Pá Mu hung dữ mùa cạn, khi nước dâng thì hiền lành là bến đò đưa khách qua sông.
Tại Pá Vinh - nơi xây Thủy Điện Sơn La có cây cầu cứng qua sông để thi công… Sau 5 ngày lênh đênh sóng nước, thuyền cập bến Tạ Bú an toàn.!.!.
Theo Nguyễn Khôi
|