VNQĐ online: Sau một thời gian lâm bệnh, do tuổi cao, sức yếu, Thượng tướng Phùng Thế Tài đã từ trần hồi 13 giờ 50 phút, ngày 21/3, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 175, Thành phố Hồ Chí Minh. Lễ tang Thượng tướng Phùng Thế Tài đã được tổ chức theo nghi thức Lễ tang cấp Nhà nước. VNQĐ online xing giới thiệu bài viết về ông của nhà văn Phùng Văn Khai.
Thượng tướng Phùng Thế Tài năm nay đã trên chín mươi tuổi. Trời cho ông một sức khỏe hiếm thấy và sự minh mẫn, tinh tường cũng vào loại hiếm. Đúng hẹn, tôi chở nhà văn Hoàng Quảng Uyên đến làm việc với ông. Hoàng Quảng Uyên đến để xác minh một thông tin năm 1944, khi ấy, chàng thanh niên họ Phùng vừa tốt nghiệp trường Sĩ quan Hoàng Phố với quân hàm trung úy, tháp tùng Hồ Chủ tịch sang thăm và làm việc tại Trung Quốc. Nhắc đến Bác Hồ, đôi mắt Phùng tướng quân linh động hẳn lên. Ông là người có thời gian dài làm công tác bảo vệ Hồ Chủ tịch. Cái tên Phùng Thế Tài cũng là do Bác đặt. Ông tên thật là Phùng Văn Thụ quê gốc tại xã Văn Nhân, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây (cũ). Nhà nghèo, thuở nhỏ cậu bé Phùng Văn Thụ đã sớm lưu lạc sang tận Vân Nam (Trung Quốc) mưu sinh rồi được vận động tham gia tổ chức Việt Nam độc lập đồng minh hội ở hải ngoại. Cũng chính tổ chức này cử ông đi học trường Sĩ quan Hoàng Phố và ông đã sớm bộc lộ một thiên hướng quân sự bẩm sinh. Thông minh đĩnh ngộ và đặc biệt là có sức khỏe dẻo dai nên khi tổ chức phân công ông làm bảo vệ cho Nguyễn Ái Quốc thì cái tên Phùng Hữu Tài là do Bác đặt. Có thể khẳng định, ông cũng rất cẩn thận với chữ nghĩa nên một thời gian sau, chính ông đã xin với Bác cho đổi thành Phùng Thế Tài vì Hữu Tài xem ra có vẻ kiêu căng, thiếu khiêm tốn. Bác Hồ mỉm cười đồng ý, thầm khen người cận vệ trung thành.
Buổi sáng trời mưa và có vẻ hơi rét nhưng Phùng tướng quân vẫn rất thoải mái trong bộ quần áo ở nhà và nói rất nhiều với các nhà văn. Phùng tướng quân bảo, năm 1944, Bác Hồ quyết định phải nối mặt trận ngoại giao với những người cộng sản Trung Quốc và đặc biệt là thiết lập mối quan hệ với người Mỹ ở Trung Quốc. Khi ấy, tình hình chính trị của Trung Quốc rất phức tạp nhưng cũng là giai đoạn bắt tay giữa Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch. Lúc đó, ta mới bắt sống một trung úy phi công Mỹ tên là Saw tại bản Ngần ven thị xã Cao Bằng nên Bác quyết định sử dụng viên trung úy như một bức thông điệp để tiếp cận với viên tướng Tư lệnh không quân Mỹ ở Vân Nam. Chuyến đi được giữ hết sức bí mật. Đoàn vẻn vẹn có 4 người gồm Bác Hồ, viên phi công Mỹ, Đinh Đại Toàn và Phùng Thế Tài, hai người là bảo vệ xuất phát ở cột mốc 108 Cao Bằng đi thẳng sang Tĩnh Tây. Sau nhiều ngày lặn lội trên đường rất vất vả vừa phải cảnh giới với nhung nhúc mật thám vừa tìm những con đường an toàn, đoàn cũng đến được Tĩnh Tây. Do thông hiểu tiếng Trung Quốc nên Phùng Thế Tài tới cổng gác quân doanh của trung tướng Trần Bảo Xương, chủ nhiệm sở chỉ huy Tĩnh Tây thuộc chiến khu 4 do tướng Trương Phát Khuê làm tư lệnh. Sau khi xưng danh và mục đích, đặc biệt có món quà là viên phi công Mỹ, đoàn công tác lập tức được tướng Trần Bảo Xương đón tiếp nhưng viên phi công Mỹ chỉ nói được tiếng Anh lại không có phiên dịch nên phải đợi các tùy tùng của Trần Bảo Xương tìm phiên dịch. Cũng ngay lúc đó, Trần Bảo Xương gọi điện thoại báo cáo thượng cấp và nhận thông tin được phép tiếp đoàn của Bác. Sau khi có phiên dịch làm việc, Trần Bảo Xương lệnh cho sĩ quan đối ngoại sắp xếp nơi ăn chốn ở cho đoàn và thân mật mời cơm Người. Phát hiện thấy thái độ vồ vập quá đáng với viên trung úy phi công, Phùng Thế Tài đã bắt đầu nghi ngờ, chỉ sợ sau khi có trong tay món hời, các tướng lĩnh Quốc Dân Đảng tranh công rồi làm khó dễ cho Bác, thậm chí chúng có thể làm càn vì trước đó, Tưởng Giới Thạch đã từng bắt giam Bác hơn một năm trời ở các nhà tù Quảng Tây. Thấy tình hình bất lợi, Phùng Thế Tài xin phép Bác lén theo dõi động tĩnh của viên trung úy và tướng Trần Bảo Xương. Khi ấy khoảng chín mười giờ tối, các sĩ quan của Trần Bảo Xương mời Bác đi ngủ. Trằn trọc không ngủ được, thấy phía nhà khách còn sáng đèn, Phùng Thế Tài bí mật lẻn đến thấy Trần Bảo Xương cùng với phiên dịch đang tìm mọi cách khai thác viên trung úy Saw. Loáng thoáng nghe thấy tiếng “bắt giữ”, Phùng cận vệ lập tức về báo cáo Bác. Tình hình lúc đó rất khẩn trương, Bác nhận định tay chân của Tưởng Giới Thạch hoàn toàn có thể lợi dụng vào thời cơ này để một lần nữa bắt giữ Bác. Bác hội ý với hai người cận vệ và cả ba thống nhất phải rời sở chỉ huy của Trần Bảo Xương ngay lập tức. Bác quyết định quay trở lại biên giới ngay trong đêm, về lại Pác Pó rồi hạ lệnh tắt điện, sắp xếp giường chiếu như là đã đi ngủ để đánh lạc hướng. Khi đi qua cổng, Phùng Thế Tài nhanh trí nói là đi mua thuốc nên chúng không nghi ngờ gì. Ba Bác cháu gấp rút tranh thủ rời khỏi nơi nguy hiểm. Bác quyết tâm làm sao đến mờ sáng phải có mặt ở cột mốc 108 trước khi mệnh lệnh bắt giữ của Trần Bảo Xương kịp ban bố. Khi ấy sức khỏe của Bác không được tốt nhưng Bác rất cố gắng để không ảnh hưởng tới sự an nguy của đoàn nếu chậm chân. Khi đã đi được nửa đoạn đường, Bác rất khát nước và bắt đầu xuống sức, Phùng Thế Tài phải đi hàng cây số tìm suối lấy nước cho Bác uống. Trước khi đi, Phùng Thế Tài đãi Bác điếu thuốc lá (Phùng Thế Tài được phân công giữ thuốc là và chỉ để cho Bác hút hết sức hạn chế theo chỉ định của bác sĩ. Từng nhiều lần Bác Hồ nằn nỉ xin thuốc hút nhưng Phùng cận vệ kiên quyết không đưa khiến Bác phải gắt nhưng sau đó Bác luôn ngợi khen nguyên tắc của người cận vệ trẻ). Có nước uống, lại được hút điếu thuốc thêm phần tỉnh táo, Bác phấn chấn giục mọi người gấp rút lên đường. Đến mờ sáng thì về được sát biên giới. Mấy Bác cháu được đồng chí Lê Quảng Ba đón về ở một cái hang cách cột mốc 108 hơn một ki lô mét. Bác lập tức hội ý với đồng chí Lê Quảng Ba, xác định phải tìm mọi cách tiếp tục đến Côn Minh bởi tình hình cách mạng rất khẩn trương, trên các mặt trận trục phát xít đang thua đậm, thời cơ làm cách mạng giành độc lập dân tộc đang có những điều kiện quốc tế thuận lợi. Lần đi này cũng được giữ tuyệt đối bí mật và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng hơn. Phùng Thế Tài được tổ chức giao cho ba con ngựa dùng để cưỡi nhưng Bác kiên quyết không cưỡi. Bác bảo đi bộ cũng là một phương pháp rèn luyện thể lực. Thế là hai người cận vệ trẻ (Phùng Thế Tài và Đinh Đại Toàn) cưỡi ngựa còn Bác đi bộ. Hai anh cận vệ bàn nhau như thế thì không thể được nên lại giao ngựa cho dân. Ba Bác cháu hạ quyết tâm bí mật đi theo hướng Điền Đông, Điền Cả, qua một loạt xã, huyện, thị trấn đến Côn Minh. Đinh Đại Toàn, người dân tộc Thổ rất chăm chỉ, đặc biệt rất khỏe nên mang đồ đoàn khá tốt. Chỉ phải cái chàng thanh niên người Thổ này ăn rất khỏe, mỗi bữa cứ phải bảy, tám bát mà cậu chàng vẫn còn muốn ăn nữa. Phùng Thế Tài loay hoay không biết làm sao nhưng cũng phải báo cáo với Bác vì cứ ăn thế này có khi không đủ lộ phí để đến được Côn Minh, Bác cười bảo cứ để cho cậu ấy ăn, vài ngày nữa mệt tự khắc ăn ít đi. Đúng như dự đoán, cậu chàng ăn rút dần. Khi ấy, Phùng cận vệ mới thở phào.
Chuyến đi rất gian lao nhưng kết quả thì rất tốt. Bác đã tiếp xúc được với người Mỹ ở Côn Minh, đạt được một số thương thảo có lợi cho cách mạng Việt Nam, thậm chí phía đoàn Mỹ còn giao hẳn một chiếc máy bay để phục vụ đoàn Việt Nam. Sau khi đàm phán thành công, tháng 3 năm 1945, máy bay Mỹ chở Bác và đoàn (lúc này một số nhân sĩ trí thức người Việt Nam ở Trung Quốc theo Bác về làm cách mạng như Cao Hồng Đính, Lâm Bá Kiệt…) từ Côn Minh về Bách Sắc để Bác làm việc với Bộ Tư lệnh chiến khu 4, tướng Trương Phát Khuê và tướng Trần Bảo Xương, những người luôn ngầm kính trọng tài năng và nhân cách của Hồ Chủ tịch. Tướng Trương Phát Khuê cho xe zip ra tận sân bay đón Bác. Sau khi chiêu đãi đoàn và được Bác thông báo phía Mỹ đã công nhận tổ chức Việt Nam cách mạng đồng chí hội là tổ chức cách mạng hợp pháp đại diện cho quyền lợi của nhân dân Việt Nam, tướng Trương Phát Khuê đã điện báo cáo Tưởng Giới Thạch ngay. Khi ấy Tưởng cũng đồng ý để Trương Phát Khuê tiếp đón trọng thể Bác. Cũng thời điểm ấy, có lính gác báo cáo với đoàn Việt Nam có người xưng tên là Hoàng Quốc Việt xin được gặp các đại biểu. Phùng Thế Tài lập tức báo cáo Bác Hồ. Bác bảo mời ngay Hoàng Quốc Việt cùng các đồng chí Đặng Viết Châu, Dương Đức Hiền vào gặp. Đồng chí Hoàng Quốc Việt vừa ở trong nước sang đã báo cáo tình hình công việc mọi mặt với Bác. Bác lắng nghe, sau đó căn cứ chuyển biến của tình hình quốc tế phân công ngay Hoàng Quốc Việt về báo cáo trung ương một số việc cần làm ngay. Hoàng Quốc Việt lập tức lên đường trở về báo cáo với đồng chí Trường Chinh xử lý công việc theo sự phát triển của cách mạng và các nhân tố quốc tế mới.
Khi ấy có một việc đột biến xảy ra. Khi thấy cục diện chiến tranh biến đổi, phát xít Nhật đang trên bờ diệt vong, Tưởng Giới Thạch tính nước cờ để Hoa quân nhập Việt. Tiếng là tước vũ khí và tiếp nhận đầu hàng của quân Nhật nhưng thực chất là định thôn tính Việt Nam với sự cấu kết của một số thế lực phản động trong nước. Phát hiện ra âm mưu đen tối của chúng, Bác lập tức hạ mệnh lệnh lên đường trước khi lệnh của Tưởng Giới Thạch tới được các cửa ải và tay chân mật thám của Tưởng. Cũng rất may mắn là tướng Trần Bảo Xương, chủ nhiệm sở chỉ huy Tĩnh Tây của chiến khu 4 sau sự việc hiểu lầm trước kia đã tỏ ra rất khâm phục Bác. Trần tướng quân chỉ thông báo lệnh của thượng cấp một cách chiếu lệ để đoàn ta kịp về nước. Mới thấy rằng, đạo đức và nhân cách của Người đã cảm hóa rất nhiều người, trong đó có cả tướng lĩnh của kẻ thù.
Bác kịp về Pác Pó an toàn cùng với đoàn tùy tùng chỉ đạo thắng lợi cách mạng Việt Nam, giành độc lập tự do cho dân tộc.
Vị tướng ngồi trầm ngâm một lúc sau những hồi nhớ xúc động một thời như vẫn còn quá gần gũi. Sau nhiều chuyến đi bảo vệ và ở với Người, Phùng Thế Tài có thể nói là một trong những chiến sĩ cận vệ gần gũi với Bác nhất. Bác cũng rất tin yêu người thanh niên sáng dạ họ Phùng. Khi về đến Tân Trào, trước tình hình cách mạng biến chuyển mau lẹ, Phùng Thế Tài nằng nặc đòi Bác cho ra mặt trận chiến đấu trực tiếp và phải gắt cả lên với Bác, Bác Hồ mới đồng ý. Ông cũng là tiểu đội trưởng đầu tiên của giải phóng quân Thất Khê tham gia giành chính quyền tại Thất Khê tháng 8 năm 1945.
Sau này, ông trưởng thành và giữ các chức vụ: Trung đoàn trưởng trung đoàn 28 (Chi đội Lạng Sơn), Đại đoàn trưởng Đại đoàn Pháo binh 349, Hiệu trưởng trường Sĩ quan Pháo binh, Tư lệnh đầu tiên của Quân chủng Phòng không - Không quân và từ năm 1967 đến năm 1987, ông giữ chức Phó tổng Tham mưu trưởng.
Tôi và nhà văn Hoàng Quảng Uyên ngồi lặng trước những ký ức rất xúc động của vị tướng trận một thời từng là cận vệ của Bác Hồ. Nhắc đến Bác, lão tướng quân vẫn nhớ được từng chi tiết nhỏ dù câu chuyện xảy ra cách đây đã gần bảy mươi năm. Người cận vệ của Bác Hồ ngồi đó, thâm trầm như một trái núi mà ẩn chứa trong đấy những tâm tư, kỷ niệm, niềm tin và lẽ sống đã lặng lẽ ngấm sang từ một con người vĩ đại - Hồ Chí Minh.
Chúng tôi biết tin Thượng tướng mất tại Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết này như một nét tâm nhang gửi tới ông.
P.V.K - Tạp chí Văn nghệ Quân đội
|