Trang chủ Liên hệ       Thứ hai, Ngày 25/11/2024
 
 
THÔNG TIN
Giới Thiệu Hội
Trang Thể Thao
Sức khỏe & Đời sống
Ẩm thực Nghệ Tĩnh
Việt Nam Đất Nước Con Người
Khoa học & Môi Trường
Chuyện lạ đó đây
Nhịp cầu Nhân ái
DANH SÁCH TẤM LÒNG VÀNG
Tin tức Nghệ Tĩnh
Truyền thống Nghệ Tĩnh
Tâm sự cuộc sống
Văn hóa - Xã hội
Văn Nghệ
  -  Văn Thơ Sưu Tầm
  -  Sáng Tác Cộng Đồng
  -  Văn thơ của bạn
Thư Viện
Góc Cười
Tin Trong nước -Tin Quốc Tế -Tin Ucraina
Tin Cộng Đồng
Người Việt Trên Thế Giới
BÀI DỰ THI VỀ XỨ NGHỆ
QUẢNG CÁO

 
Trang chủ > Văn Nghệ > Văn Thơ Sưu Tầm >
  Truyện ngắn: Vườn quê xào xạc Truyện ngắn: Vườn quê xào xạc , Người xứ Nghệ Kiev
 

 

 
Vườn quê xào xạc của Nguyễn Ngọc Phú như vết cắt của nông thôn Việt Nam trong kinh tế thị trường hôm nay. Nó không phải là câu chuyện để dễ kể lại và không có xung đột thắt hay cởi nút, song nó vẫn đứng được nhờ có các chi tiết mà chỉ có người am tường quê mùa mới viết ra được. Chuyện không vui không buồn, dường như tác giả đứng ngoài các sự kiện nhưng đọc xong người ta vẫn như tiếc nuối một điều gì đó đã thăm thẳm chôn cất ở từng người xa quê nay chợt qua Vườn quê xào xạc mà hong hanh nhớ ra, dẫu biết rằng quy luật của muôn đời là xã hội luôn thay đổi. Lời bình của nhà văn Nguyễn Văn Thọ.

Làng Đan nằm cạnh sông Cày, bao bọc bởi những rặng tre ken dày, có nghề đan tre được truyền đời này sang đời khác, nhưng nghề ấy cũng rơi rụng đi theo thời gian. Lứa trẻ thời nay không chịu học nghề, cái nghề đòi hỏi tỉ mẩn công phu, chuốt đi chuốt lại rồi nheo nheo, ngắm ngắm, lại uốn uốn cong cong cho đến tuổi lưng còng vẫn xoay đi nắn lại cái vành rổ, vành rá. Đêm rã rời nhờ có chút rượu giãn xương cốt nằm mà đau nhức muốn rụng từng lóng xương.

Làng Đan chỉ còn lại duy nhất một nghệ nhân theo nghề là lão Rổ. Đúng là lão Rổ thật. Khuôn mặt đậu mùa từ khi sinh ra đã để lại chằng chịt những vết sẹo lỗ chỗ. Lão khoái cái tên Rổ vì nghề của lão là đan Rổ. Vợ hai lão tên là Rá. Vợ đầu chết sớm khi chưa có con. Lão thích cô này vì cái tên: Rá! Rổ, Rá cạp lại mà sinh ra một cô gái có vóc người dỏng cao, nước da trắng hồng như người mẫu. Lão đặt tên con là Tre - Nguyễn Thị Thanh Tre. Tre lớn lên biết cái tên mình không đẹp như tên bạn, không chịu, lão bảo: “Mày dáng cao vong vỏng như thân tre ngà thì tao đặt là Thanh Tre, đúng quá còn chê gì nữa”. Tre khi nhỏ không muốn đi học dầu nó học rất khá, vì cứ đến lớp là lũ bạn cứ réo lên: “Ê, ê bọn mày ơi! Cái Thanh Tre nó đến rồi”.


Thầy giáo làng là người nghiêm khắc, luôn có một thanh tre dắt lưng, trò nào lười học là vụt luôn. Lắm đứa bị đòn, lưng cứ nổi con lươn, con chạch nên bọn nó ghét luôn cô bé có cái tên ấy. Mãi sau, có một họa sĩ chuyên vẽ đề tài nông thôn gặp Tre liền nhờ làm người mẫu. Từ đó cái tên Thanh Tre được thay bằng Thanh Trúc và bức tranh “Bé Thanh Trúc” ngồi trên cái ghế tre do ông Rổ đóng đã trở thành bức họa nổi tiếng được đem đi triển lãm quốc tế và bán cho một thương gia nước ngoài.

Ngày ấy, tôi cùng đám trai làng mê Thanh Trúc như điếu đổ. Nhà Thanh Trúc nuôi một con chó dữ, lão Rổ đặt tên là Măng. Con Măng tinh khôn lắm luôn quẩn quanh bên cô chủ. Vì thế dù có đêm khuya khoắt Thanh Trúc đi họp đoàn về đố có kẻ xấu nào dám trêu ghẹo. Tôi biết Măng khoái khẩu món cá đồng nướng nên tối nào muốn đến tán tỉnh em Trúc thì trưa đó phải lặn lội ngoài mương để bắt cho kỳ được mấy chú rô ron bụng phình trứng con đầy nhớt dụi vào đống rạ khô nướng đến khi thân hình tròn căng nứt nẻ thịt cá rô trắng bông, bọc trong lá chuối khô mà mùi thơm vẫn cứ rịn ra. Tôi vừa thập thò đến cổng nhà Trúc đã thấy chân mình cái gì cọ vào rin rít, ướt át, ấm nóng hóa ra là Măng. Thanh Trúc bảo: “Con Măng tinh thật, chưa thấy anh đâu đã thấy nó rối rít đuôi cứ ve vẩy và vọt ra ngoài ngõ là em biết ngay!”.

Nhà lão Rổ nhiều khách. Khách của lão là bạn già nghiện nước chè xanh và rít thuốc lào. Cũng lạ, món thuốc lào hút vào say đứ đừ này lại kén điếu lắm. Thuốc thì tất nhiên phải là loại Tiên Lãng rồi nhưng còn điếu thì chỉ có lão Rổ mới tiện cho ra những cái nõ rõ kêu giòn dã như súng bắn liên thanh. Cái nõ điếu loe ra như dáng một bông hoa lửa. Lão bảo: “Chỉ có điếu tre mới ngon chứ hút cái điếu bằng kim loại khói thuốc không say được, rít thuốc có ngon tới mấy rỉ nó cứ lành lạnh, lì lợm, trơn nhẵn”. Ống điếu lão làm khá cầu kỳ. Tất nhiên là phải chọn tre rồi. Đó là loại tre chết “róc”, tre già đã chết khoảng một phần ba từ ngọn xuống. Thường, một bụi tre lớn, mới có vài cây chết “róc”, lão thường chọn tre tháng ba “Tre non tháng Ba bằng tre già tháng Tám”. Khoảng giữa điếu bao giờ cũng có một mắt tre được lão khéo léo khoan thủng để tra nõ, còn nỏ điếu là một kỳ công. Đó là gốc cây chè già vẫn lấy đun nước uống, gốc làm nõ điếu là loại chè được trồng trên vùng đồi hút hết tinh chất gió sương. Gốc chè được lão triện nhẵn khoan thủng tạo những dáng đẹp lạ. Khi hút, khói thuốc ngấm qua vị thân chè lại được luồn tráng qua thân tre già tạo ra một hương vị riêng, lại chiêu một ngụm nước chè xanh đặc chát thì chỉ có thăng lên trời say đứ đừ, thứ khoái chỉ có ở nhà quê mới có.

Khách đến nhà lão thường ngồi trên cái chõng tre lão đóng, ngồi xếp bằng. Hai bàn chân to bè nứt nẻ như ruộng đồng nắng hạn xát vào nhau cho hết bụi rồi vén cái quần thụng, thế là bữa tiệc thuốc lào chè xanh cắm tăm rôm rả. Nước chè của lão đựng trong cái gáo dừa chứ bằng bát sứ là vứt! Gáo dừa có chất gì vậy? Lão bảo: “Cái đó là duyên giữa gỗ và nước, đời này không có duyên là vứt!”.

Thanh Trúc thường giúp bố luộc nồi khoai Nghệ, củ nào cũng nung núc, ruột vàng vỏ nâu thơm và ứa mật. Mấy bạn già của lão đã đánh tiếng “E hèm” muốn làm thông gia với lão bởi: “Cái bé Tre, bé Trúc nết na lắm, lại học giỏi, vi tính thì nhất, cứ lên mạng nhoay nhoáy. Nó còn chat được cho cả người Tây nữa”.

Lão Rổ có bộ đồ nghề cha truyền con nối thật tinh xảo giống như dụng cụ của một bác sĩ ngoại khoa chuyên mổ xẻ. Thôi thì đủ cả: Đục to, đục nhỏ rồi chàng, khoan, cưa, dao chẻ, dao vót, bào tròn, bào vuông... tất cả đều được lão đặt hàng ở làng rèn Trung Lương nổi tiếng với loại thép đặc biệt tôi kỹ trong than đỏ và nước lạnh làm lưỡi cứ bén ngọt. Đặc biệt là cái khoan có cái dây được làm bằng da bò từ mấy đời săn chắc. Lũ trẻ chúng tôi như chùm quả đu đủ trĩu vào chung quanh lão để nhờ lão làm diều. Lão hỏi: “Đố các cháu biết loại nào tre đực, tre cái?”.

Chúng tôi ngẩn ra tò te - cây làm gì có đực, cái nhỉ, có phải như con này con nọ đâu! Thôi thì: “Tre cái đẻ măng, còn tre đực thì...”.

Lão cười khà khà mắt nheo nheo, đó là bệnh nghề nghiệp của lão, mắt lão nheo và ngón tay sần sùi vuông cành cạnh như cái đục: “Tre đực là dày mắt ruột đặc, tre cái là mắt thưa thẳng hơn, dễ chẻ, còn tre nào mà chẳng đẻ măng!” Cái tiếng “Măng” lão nói to khẳng định dứt khoát làm con Măng tưởng gọi mình giật nảy, cuống quýt chạy lại ve vẩy đuôi tỏ vẻ thân thiện với lũ trẻ chúng tôi.

Một ngày, có người đến nhà lão tìm học nghề. Anh này cũng khéo tay. Lão giao cho khâu đục mọng là khó nhất. Tre già ở lớp ngoài nhưng trong lại non đục không khéo là vỡ liền. Anh này cũng khôn, khoan hai mũi sau đó mới đục. Được! Lão chấp nhận - Còn chốt! Đục tròn, chốt tròn ống tre vỡ ra. Thôi rồi bạn ơi, khâu sát hạch không vượt qua được, thì ra đục lỗ tròn nhưng chốt phải vuông mới khít được như kiểu trời tròn đất vuông ấy mà. Nghe lão nói anh chàng học nghề ngẫm ra được nhiều điều triết lý dân gian độc đáo. Vật liệu nghề đan của lão đâu chỉ có bằng tre. Bà Rá là người chuyên đi chợ huyện mua hàng cho lão. Ngoài tre trong vườn thì còn phải mua cây trập (đan rá), cây giang (đan dần), cây nứa (đan sàng), cây mây (đan rế). Bà Rá là người xởi lởi lúc nào miệng cũng bỏm bẻm nhai trầu chưa thấy người đã nghe giọng cười rộn rã. Nhưng bà chọn vật liệu rành lắm. Có thứ sờ bằng tay, nhìn bằng mắt và có khi ngửi bằng mũi nữa mới đánh giá được chất lượng. Chưa bao giờ thấy lão Rổ phàn nàn về việc mua chọn của bà. Hình như trời sinh ra để hai người làm nghề này vậy. Nhà lão cung cấp cho cả làng gần như đồ dùng hằng ngày toàn là đồ lão tặng. Nhà lão bao giờ cũng được ăn cá tươi bởi dân làng đánh được đem cho bằng những dụng cụ lão làm ra sát cá lắm như cái nơm, cái nhủi, cái đó. Lão bảo: Có gì đâu sinh ra từ đất này từ nhỏ lão đã thuộc cả thổ đất cả mương máng sông lạch nên đồ lão làm ra cũng đã được đo đạc ướm thử bằng linh cảm của mình.

Thanh Trúc học giỏi môn hóa, suốt ngày ngồi pha chế hết mầu này đến mầu khác. Mầu pha chế cũng từ rễ khoai, lá môn, đọt bầu đâm đâm giã giã mà tạo ra thứ sơn thực vật dính bệt hơn cả nhựa keo phết lên các đồ nông cụ bắt mắt ít khi phai mầu. Trúc cứ thế lớn lên, líu lo hát, líu lo nhảy chân sáo ngày một phổng phao và thi đậu vào khoa hóa chuyên ngành sản xuất tái tạo đồ nhựa phế phẩm. Sản phẩm do cô nghiên cứu và sản xuất cũng đại trà theo dây chuyền công nghiệp mẫu mã y hệt giống nhau cũng là rổ, rá, bàn, ghế nhưng tất tật đều bằng nhựa tái sinh với muôn màu, muôn vẻ. Rồi cô được đi nghiên cứu sinh sang cái nước mà ngày trước ông họa sĩ đưa tranh “Bé Thanh Trúc” đi triển lãm. Không ngờ người mua tranh ngày ấy tình cờ gặp và nhận ra cô trong một cuộc trưng bày sản phẩm ở gian hàng Việt Nam lại là đồ tre mây của bố cô làm. Mối tình giữa kỹ sư hóa chất Thanh Trúc với con trai nhà thương gia đã bén nồng. Họ quyết định về làm đám cưới ở làng Đan. Khách mời là chục ông tây, bà đầm lỉnh kỉnh những máy quay phim, chụp ảnh vừa về dự đám cưới vừa được tham quan cái làng nghề còn sót lại nghệ nhân Nguyễn Văn Rổ đã được lên truyền hình mấy lần với những bộ sưu tập rổ, rá, dần, sàng truyền thống lâu đời của người Việt. Thanh Trúc gửi giấy mời bạn học cũ bằng một tấm thiệp độc đáo được làm bằng một phiến tre già với nét hoa văn cầu kỳ tinh xảo do bố cô dày công chạm trổ trước cả hằng tháng. Đám cưới diễn ra thật bất ngờ khi dân làng huy động toàn bộ chõng tre, bàn tre, ghế tre của cả làng cho khách ngồi dự tiệc. Còn dụng cụ làm bếp thì toàn bằng tre cả. Dân tây tận mắt được nhìn những hạt gạo, hạt nếp xay, giã, dần, sàng trắng muốt, lại được tận tay bắt những con cá tươi đành đạch từ cái oi con vịt đan bằng tre căng phồng lại được xếp bằng rít thuốc lào uống nước chè xanh mắt cứ say đứ đừ miệng cứ “Ok”, “Thank you”.

Lão Rổ hể hả dắt tay bà Rá đi giữa đám thực khách miệng cứ rối rít gọi con Tre ơi! Tre ơi! Rồi sực nhớ ra lão lại ngượng nghịu cười Thanh Trúc! Thanh Trúc. Chỉ có con Măng đã già mắt kèm nhèm nằm ở góc vườn buồn bã. Nó không còn nhận ra tôi. Sực nhớ tôi đi ra bếp sau vườn chọn một chú cá rô béo nhất tự mình nướng theo đúng khẩu vị của Măng ngày trước bọc vào cái lá chuối khô quen thuộc bước lại gần Măng, Măng khịt khịt mũi nhổm lên rồi nhảy cẫng rối rít dơ hai chân trước cào cào vào người tôi, cái mũi hít hít cái gói cá nướng tôi cầm từ mắt nó rỉ ra dòng nước nóng hổi.

Chung quanh tôi cả rặng tre vườn dường như cũng bừng tỉnh hòa chung với không khí đám cưới nhà quê. Tre đan vào nhau xào xạc, xào xạc... Vâng, tiếng tre ngàn năm vẫn thế, chỉ có điều ai gắn bó nhiều với nó mới nhớ ra thôi.

Hà Tĩnh, 3-2013

Nguyễn Ngọc Phú

Nguồn Quehuongonline.vn


  Các Tin khác
  + Tháng giêng non thương mùa nắng hạ (19/09/2024)
  + Những hàng thông lặng im (19/09/2024)
  + MẮT TRĂNG (19/09/2024)
  + LÒNG TỰ TÔN (01/08/2024)
  +  CHUYỆN O NẬY (31/07/2024)
  + THÁNG BẢY VỀ.. (25/07/2024)
  + MÙA HOA GẠO (25/07/2024)
  +  TRƯỚC KHI QUÁ MUỘN (25/07/2024)
  +  NHẶT MẸ VỀ NUÔI (25/07/2024)
  + HÀNG THẢI (31/05/2024)
  + NỖI ĐAU BỊ LỪA DỐI. (31/05/2024)
  + VÙNG KÍ ỨC TRẮNG (30/05/2024)
  + Dưới ánh sương mai (26/05/2024)
  + VẰNG VẶC CHỮ TÂM (Thơ BÙI NGỌC BÍCH) (19/02/2024)
  + ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY Thơ Trần Huy Liệu Lời bình Bùi Ngọc Bích (19/02/2024)
  + GIÓ MÙA (02/11/2023)
  + TẢN MẠN CUỐI THU (02/11/2023)
  + Truyện ngắn. MỘT KIẾP NGƯỜI. (02/11/2023)
  + DỊU DÀNG MÙA THU (04/09/2023)
  + Thơ Nguyễn Hữu Quý - ĐÃ TỚI MÙA ĐÔNG (11/11/2022)
Playlist

GIỚI THIỆU
QUẢNG CÁO
Thống kê
Guests online: 2
Total: 65242078

 
 
 
Người xứ nghệ Kiev
Designed by July