Tôi về tham dự một trại viết ở khu du lịch sinh thái cách ngã ba Đồng Lộc vài cây số. Những ngày này, tôi hay nhìn lên vòm trời cao rộng và bất chợt nhận ra: hình như trời Đồng Lộc xanh hơn mây trắng nhiều hơn. Những cụm mây xếp thành hình bông huệ trắng lúc biến thành hình người lính rồi bỗng tan ra hòa vào cõi thinh không. Nhưng đêm trăn trở nhìn ra mặt hồ bát ngát ánh trăng rải ánh bạc xuống những hàng thông reo mà tôi vẫn chưa tìm ra mạch văn của mình. Đồng Lộc có bao nhiêu trang sách, bản nhạc, bài thơ đã viết. Chiến tranh đã đi qua nhưng những nhân chứng vẫn còn đây. Tôi muốn tìm một tượng đài khác ở trong lòng người đó là: Tượng đài tâm linh với bao huyền thoại linh thiêng mà tôi đã gặp hay được nghe kể lại. Những sự trừng hợp ngẫu nhiên rất thần kì ai bảo đằng sau những đám mây trắng có vẻ nhởn nhơ kia lại không có những linh hồn bất tử đang ngày ngày nhìn xuống chúng ta. Ai bảo đằng sau những bụi sim ngọn cỏ lại không có những tiếng vọng da diết từ lòng đất đang dõi theo chúng ta nỗi ám ảnh khôn nguôi.
Cụm tượng đài và tháp chuông Đồng Lộc
Tôi nhớ cách đây 5 năm khi được NXB quân đội mời về Cửa Lò dự trại sáng tác tiểu thuyết và trường ca về đề tài chiến tranh; tôi có dự định viết trường ca về Ngã ba Đồng Lộc. Trước lúc đi tôi định lên viếng mộ mười cô gái anh hùng nhưng rồi công việc quá bận nên chưa thực hiện được. Một tuần ở Cửa Lò, gió biển mát rượi, sinh hoạt thật thoải mái nhưng tôi không viết được chữ nào. Đặt bút xuống những con chữ biến đâu mất, tâm hồn trống rỗng. Chập chờn trong giấc mơ là nỗi day dứt chưa về viếng thăm Ngã ba Đồng Lộc trước lúc ra đây. Tình cờ có đoàn của báo Quân đội nhân dân do đại tá, nhà thơ Nguyễn Hồng Hà dẫn đầu vào trại viết và có ý định đi thăm Ngã ba Đồng Lộc. Nhà văn Nguyễn Tiến Hải - Trại trưởng cử tôi dẫn đoàn đi. Nhà thơ Nguyễn Hồng Hà có chiếc máy ảnh hồi đó chưa dùng kĩ thuật số và anh tin rằng trong máy còn rất nhiều phim đủ để chụp ảnh tư liệu về Ngã ba Đồng Lộc cho tờ báo "Nhân chứng và sự kiện" do anh phụ trách. Đi qua Nghi Xuân, có linh tính nào đó nhà thơ bảo lái xe quay lại rẽ vào khu lưu niệm đại thi hào Nguyễn Du chụp vài kiểu ảnh. Đến kiểu thứ ba thì hết phim. Anh giật mình và may mắn vào hiệu ảnh gần đó mua được mấy cuộn phim dự trữ bởi ở Đồng Lộc bấy giờ không thể tìm ra phim để chụp; và như thế chuyến đi sẽ trắng tay vì không có ảnh tư liệu để làm báo. Đoàn chúng tôi thắp hương trước mộ mười cô. Chú lái xe thắp một bó hương to và chia ra cho mỗi người. Kì lạ thay bó hương của tôi và nhà thơ Nguyễn Hồng Hà ngẫu nhiên có chung một con số mười ba, nghĩa là chúng tôi thắp ba nén hương trước linh hương chung sau đó còn mười nén hương khác đủ chia đều cho mười ngôi mộ. Khi đoàn vào thăm nhà bảo tàng, tự nhiên tôi và nhà thơ Nguyễn Hồng Hà tách đoàn đi thẳng ra hố bom nơi các cô hi sinh. Bỗng nhiên gặp mấy cháu bé bán hương như đang chờ chúng tôi ở đó. Chúng tôi thắp hương và cắm xuống hố bom khi ngước nhìn lên thì nhận ra tấm bảng đề dòng chữ "16 giờ ngày 24 tháng 7 năm 1968 mười cô gái đã hi sinh ở đây". Bất giác tôi nhìn đồng hồ và sửng sốt không thể tin ở mắt mình nói với nhà thơ Nguyễn Hồng Hà: đồng hồ của em chỉ 16 giờ 2 phút anh ạ. Nghĩa là lúc chúng ta cắm hương xuống hố bom đúng 16 giờ. Linh thiêng thật! Nguyễn Hồng Hà lặng đi, anh là tác giả bài thơ nổi tiếng "Chúng tôi đi bốc mộ ở Trường Sơn". Một sự trùng hợp thời gian thật kỳ lạ. Tối đó về Cửa Lò tôi viết liền một mạch chương đầu tiên là "Trẻ con ở Đồng Lộc", sau này thành chương ba trong trường ca "Ngã ba Đồng Lộc".
Cha và con (hướng dẫn viên Vương Thị Thương trước di ảnh của cha - liệt sĩ phá bom Vương Đình Nhỏ)
Ở trại viết tôi gặp lại nhà văn Đào Thắng, anh từng là phóng viên báo quân khu 4 trong những năm chiến tranh và đã nhiều lần vào Đồng Lộc. Anh còn nhớ như in tiểu đội 4 của Võ Thị Tần ở rải trong bốn nhà dân giữa làng đóng trong xã Thanh Lộc cách Ngã ba Đồng Lộc 2km. Chị Võ Thị Tần, tiểu đội trưởng, tính tình rất cởi mở; còn HồThị Cúc, tiểu đội phó thì lặng lẽ ít nói hơn. Cả hai đều là những người thấp đậm ra dáng chị cả. Cô em út Võ Thị Hà thích chép bài hát vào cuốn sổ màu xanh và là hạt nhân văn nghệ của đại đội. Cô Nguyễn Thị Nhỏ ánh mắt đen buồn, sâu lắng, gương mặt giản dị xinh tươi đôi má luôn ửng hồng. Còn Nguyễn Thị Xuân được phong là hoa khôi Đồng Lộc. Cô gái có đôi mắt biết nói với gương mặt đôn hậu, đoan trang, mái tóc đen nhánh, nuột nà dày và dài buông thả ôm lấy đôi vai đầy đặn tròn căng, đôi mắt mở to thật hòa hợp với chiếc mũi dọc dừa là người "có thơ nhiều nhất đơn vị". Khi Xuân ra đi trên tóc vẫn kẹp lá thư của người yêu gửi chưa kịp đọc. Và đây, Trần Thị Hường, con chim sơn ca của Ngã ba Đồng Lộc tính cách rất dịu dàng. Trong nhà bảo tàng còn lưu giữ cuốn sổ tay chép bài hát của chị. Lần này về Đồng Lộc, nhà văn Đào Thắng lấy tư liệu để viết cuốn tiểu thuyết "Đất xanh". Anh đọc cho tôi nghe một đoạn đủ hình dung không khí chiến tranh ác liệt ngày nào: "Trên một vùng đất rộng chừng 9 cây số vuông (Ngã ba Đồng Lôc) từ cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 1968, máy bay Mỹ quần đảo suốt đêm, bắn phá không tính số lượng bom đạn đã trở thành vùng đất chết như trên mặt trăng. Không còn một cây to, rừng bị chà nát. Sườn đồi, sườn núi bị ngoạm những miếng lớn đất đỏ bầm từ dưới sâu lên. Không còn một đọan đường nào nguyên như cũ, đất đồi lớp lớp tràn xuống mặt đường ngâm nước mưa nhão nhoẹt lại bị hun nóng dưới nắng và gió Lào hầm hập quánh lại bám vào chân người, vào bánh xe cứng như đóng vữa. Hai bên đường xe chở hàng bị đánh cháy nằm rúm ró đủ tư thế, cái nằm ngửa tơ hơ. Bánh cao su bị cháy rụi còn trơ những cái đai sắt, cái nằm úp xuống, nhô lên cái buồng lái đơn độc, trống hoác cái nàm nghiêng nguều ngào lay lắt..."
Chị Đặng Thị Yến bên mộ Hồ Thị Cúc
Bây giờ trở lại Đồng Lộc đã khác hẳn. Bạt ngàn thông xanh. Một màu xanh đắm đuối, màu xanh lấp lánh ánh bạc của nắng vàng như được hắt từ phản quang của kí ức, một hệ thống khu di tích đã được xây dựng khá hoàn chỉnh và trang nghiêm. Đó là tượng đài chiến thắng nằm dưới khuôn viên khu di tích. Là nhà bia tưởng niệm khắc tên 1950 anh hùng liệt sĩ, TNXP toàn quốc và các anh hùng liệt sĩ hi sinh ở Ngã ba Đồng Lộc. Là khu mộ mười nữ liệt sĩ đã ba lần dời mộ. Lần đầu các cô được mai táng tại nơi các cô đóng quân (Đồi Bãi Dĩa, xóm Mai Long, xã Xuân Lộc) cách đồi Trọ Voi khoảng 2 km. Năm 1976, phần mộ các cô được di chuyển về nghĩa trang liệt sĩ huyện Can Lộc. Năm 1990, sau khi khu di tích được đầu tư xây dựng phần mộ các cô được đưa về đúng nơi các cô đã hi sinh. Khu di tích còn có nhà truyền thống TNXP toàn quốc. Gian chính có nhóm tượng Bác Hồ với bộ đội TNXP, có 100 hiện vật gốc, 12 ảnh gốc, 145 hiện vật được phục chế gồm: xe bò, xe cút kít, ống nhòm, sắc cốt,... Cạnh đó là phòng truyền thống Ngã ba Đồng Lộc có hệ thống sa bàn lập trình bằng điện tử tái hiện chiến trường Đồng Lộc. Ở đây có nhiều hiện vật quý như: Bức thư chị Võ Thị Tần gửi mẹ, dây điện và thỏi nam châm phá bom của anh Vương Đình Nhỏ, bát ăn cơm của các cô,... Có một điều lạ là đầu buổi sáng tôi đến phòng truyền thống cả khu nhà còn rất vắng vẻ. Bước qua cửa tôi gặp ngay tấm ảnh phá bom của anh hùng Vương Đình Nhỏ nhìn tôi thật ám ảnh. Lát sau tôi thấy một cô gái nhỏ nhắn mặc áo đồng phục hướng dẫn viên bảo tàng vào lau mặt kính từng tấm ảnh. Khi cô lau tấm ảnh của anh Vương Đình Nhỏ thì bất chợt như có ai mách bảo tôi đưa máy lên chụp liền hai kiểu ảnh phía sau lưng cô mà cô không hay biết có cả ảnh của liệt sĩ Vương Đình Nhỏ. Lát sau ra hành lang nói chuyện tôi mới biết đó chính là Vương Thị Thương con gái út của anh Vương Đình Nhỏ. Một sự trùng hợp kì lạ. Thương kể: "Lần đi tìm hài cốt của cha ở Quảng Trị do mệt quá nên chiếc ba lô đựng hài cốt của cha Thương cùng mấy người (do bị bom nổ bất ngờ nên phải chôn chung một mộ) để ngay dưới sàn nhà. Đêm đó mình Thương lên cơn sốt nặng, trong mơ thấy cha về trách: Sao lại để dưới đất hả con! Thương liền gọi di động về cho mẹ đang ở ngoài quê Đồng Lộc thắp hương cho cha trên bàn thờ khấn mãi. Lát sau Thương tỉnh dần và khỏe hẳn để theo kịp đoàn đưa hài cốt về quê". Trong kí ức của Thương, bố Nhỏ rất hiền, đúng là dáng người nhỏ thật, da đen và có đôi tay thật tài hoa không những giỏi phá bom (bom loại gì cũng phá được), mà còn phá bom không ảnh hưởng đến đường lại có thuốc nổ cho công binh nổ mìn san đường nữa. Tội thật, bố của Thương không chết vì bom đạn trong chiến tranh mà lại chết vì mở một quả bom sau chiến tranh để lấy tiền cho con ăn học và bố chữa bệnh. Sau bao thăng trầm thì bố của Thương đã được nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng ngày 23/5/2005. Tấm ảnh "Cha và con" tôi chụp bất ngờ đó được bạn bè giới nhiếp ảnh khen là bắt được khoảnh khắc hiếm có.
Nhà văn Đức Ban cùng dự trại viết đã kể cho tôi nghe những chuyện rất cảm động về cuộc đời của mười cô gái Đồng Lộc. Anh đã cùng nhà văn Trần Huy Quang đi đến từng nhà để tìm hiểu tuổi thơ của họ, những kỉ niệm của người thân về họ. Cuộc tình của chị Võ Thị Tần và anh Nguyễn Đình Hồng thật giản dị như một câu chuyện cổ tích. Anh Hồng vào bộ đội, họ chia tay nhau bên ngọn đèn dầu bên gian bếp nhà Tần. Chị nói: "Anh đi khi mô hoàn thành nhiệm vụ thì ta mần lễ cưới". Anh Hồng lặng đi: "Chịu khó đợi Tần nhé, nhất định anh sẽ về", chị Tần tiễn anh Hồng ra sân dúi vào tay anh một hộp giấy màu đỏ xinh xắn như cái hộp diêm. Trong hộp là tấm ảnh chân dung của Tần và một lọn tóc mềm đen nhánh. Từ đó, tấm ảnh và lọn tóc thề thủy chung của Tần theo anh từ mặt trận B5 vào Tây Nguyên ra Cồn Cỏ. Bây giờ lọn tóc đã thành kỷ vật thiêng liêng trong bảo tàng. Lọn tóc vẫn trẻ mãi với thời gian không bao giờ bạc trắng. Võ Thị Hà, cô gái trẻ nhất có lần nói với tiểu đội phó Hồ Thị Cúc: "Em nhớ mẹ quá - mai kia thằng Mỹ bị diệt việc đầu tiên chị biết em làm chi không? Là em chạy về cùng mẹ và rủ mấy thằng em ào xuống Sông La, cào hến, sướng...". "Cho chị về cùng" - Cúc nói và hai chị em cùng cười. Bây giờ thì cả hai chị em đã về cùng bến sông qua bến trần gian bên kia thế giới. Dòng sông thẳm sâu linh thiêng hồn người. Chắc họ được siêu thoát thanh thản, tắm gội bồ kết trên dòng sông tâm tưởng của mình - một dòng sông trong suốt không có bên bồi, bên lở. Ở đó mọi người chắc sẽ được bình đẳng như nhau, được sống trong một thế giới người hiền không có chiến tranh, không có thù hận. Nhà văn quê Can Lộc cùng xã với chị Nguyễn Thị Xuân cho tôi một chi tiết đến giật mình đó là: bữa Hà Thị Xanh rủ Võ Thị Hà về thăm nhà mình, hai người ra sông tắm giặt rồi về giã gạo thổi cơm. Mẹ Xanh nhất định thịt cho bằng được con gà. Mẹ bảo: “Bom đạn như ri mấy khi bây về được". Hà vừa cười vừa nói: "Chúng con ăn với mẹ bữa cơm cuối cùng..." Mẹ Xanh chửi mấy đứa dại mồm. Điều lo lắng của bà thật linh nghiệm. Mười ngày sau họ đã trở thành những người anh hùng bất tử.
Tôi có một người bạn thơ khá thân thiết đó là Yến Thanh viết bài thơ "Cúc ơi" trong đầm đìa nước mắt. Hôm đó anh ngồi trong vườn tro có đặt cái hòm không vì chưa tìm thấy Hồ Thị Cúc. Bài thơ như một lời gọi hồn liệt sĩ và kì lạ thay trưa hôm sau (ngày 26/7) đồng đội đã tìm thấy Cúc đang ngồi ở một hầm tròn cách xa nơi chín cô ẩn nấp vài chục mét, đầu Cúc bẹp dí, vai Cúc tựa vào cuốc, thi thể còn nguyên vẹn, bầm tím mười ngón tay đầy máu khô, có lẽ Cúc đã cào bới nhưng vô vọng. Mọi người đoán Cúc vốn là người rất chu đáo hay chăm lo cho mọi người. Ở cương vị tiểu đội phó chị chờ cho chín người xuống hầm trú ẩn còn mình thì không kịp, chị chạy vào ngách hầm tròn khoét ở vách núi và bị đất vùi lấp. Yến Thanh kể: Lần nào về Đồng Lộc thắp hương đến mộ Hồ Thị Cúc thì mấy cây hương bỗng cháy bùng lên. Có một sự giao cảm bí ẩn nào đó giữa người sống và người chết. Bài thơ vẫn còn sống mãi như một tượng đài bắt đầu từ tiếng gọi hồn tha thiết: "Cúc ơi". Và trên mộ các chị, ngày ngày những đóa hoa cúc vẫn nở tươi, vẫn đau đáu nhìn mọi người với một niềm tin bất diệt các chị vẫn sống mãi với tuổi hai mươi của mình.
Ở bảo tàng Đồng Lộc có một người con gái mà mọi người trìu mến gọi thân thương "Cô gái thứ mười một", chị là Đặng Thị Yến phó ban quản lí khu di tích Ngã ba Đồng Lộc. Hơn ba mươi năm qua chị lặng lẽ đi góp nhặt những lọn tóc, lược cài, những bức thư, những tấm áo dính bụi thời gian của mười cô gái và đồng đội để lại trước lúc hi sinh ở Ngã ba Đồng Lộc. Chị nói: "Kỷ vật của người đã mất là cả gia tài của tôi". Có những thời gian gia đình gặp nhiều khó khăn khi chị phải chia tay chồng bởi anh không thông cảm ủng hộ cho công việc của chị vắng nhà thường xuyên để đi sưu tầm kỷ vật. Chị và ba đứa con nhỏ về ở tạm trong căn nhà chật hẹp, đến nay các con chị đều đã trưởng thành có công việc đàng hoàng ở Hà Nội. Điều kì lạ là khi xin việc cho con hình như ai cũng sẵn lòng giúp đỡ, có lần chị chỉ gọi qua điện thoại cũng xong! Có lẽ linh hồn các cô phù hộ cho chị. Hơn ba mươi năm gắn bó với ngã ba huyền thoại, chị thuộc từng ngọn cây ngọn cỏ, nâng niu chăm sóc từng hiện vật. Có lần chị đã bật khóc khi nhìn thấy chiếc áo đầy mảnh vá của Hồ Thị Cúc. Vượt hơn trăm cây số thuyết phục mãi người nhà đã đồng ý để chị đưa chiếc áo o Cúc về trưng bày ở bảo tàng. Chị rơm rớm: "Dường như chiếc áo của chị Cúc cũng như cuộc đời của chị ấy, chiếc áo vàng ố nhăn nheo rất nhiều mảnh vá. Tuổi thơ của Cúc là chuỗi ngày của nước mắt...".
Buổi sáng tôi từ trại viết ra Ngã ba Đồng Lộc thì bất ngờ gặp chị đang lúi húi sửa lại từng chiếc lược, tấm gương tròn trên mộ các cô. Chị Yến nói: Tôi đã định đi Hà Nội nhưng cứ nấn ná mãi không ngờ lại gặp anh. Thật ra, nếu tôi đi muộn một chút là không gặp chị và không được nghe chị kể những câu chuyện xúc động chưa một lần được công bố. Trước lúc đi đâu xa, chị Yến cũng dành thời gian để ra "rửa mặt" cho các cô vào buổi sáng. Đó là một việc làm khá quen thuộc như lấy nước ngâm bồ kết, gội đầu cho các cô. Chị kể: Có lần chị ôm mười tấm ảnh các cô lồng trong khung kính ngồi sau chiếc xe Minsk của một người bạn đồng nghiệp đi về ngã ba. Không may anh lái xe máy cho chị xuống dốc tránh chiếc xe công nông va đập vào mô đất ven đường làm lật xe và tung người ra. Chị có cảm giác mình bị nhấc bổng lên và được thả xuống vệ cỏ ven đường. Lạ thay, cả mười tấm ảnh nguyên vẹn không bị vỡ kính và chị cũng không xây xát chút nào. Chị kể cho tôi nghe về những bông hoa súng trồng trên mặt nước trong cái hố bom thật mà các cô đã hi sinh cách đây mấy năm. Bao giờ đến mùa nở hoa cũng rực rỡ mười bông. Nhất là ngày cúng giỗ cho các cô đều làm vào trưa 24 tháng 7, nếu chuyển sang buổi chiều hay ngày khác là các cô báo mộng không vừa lòng. "Tuổi của họ còn rất trẻ mà, cứ ríu rít bên nhau và vẫn hay hờn giỗi, phụng phịu thật hồn nhiên chú ạ". Tuy đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng mọi người ở đây ai cũng muốn chị ở lại. Vắng chị như vắng hẳn cả một trầm tích quá khứ mà chị là chứng nhân. Người phụ nữ nhỏ bé mảnh mai ấy cứ thấp thoáng xuất hiện mà tôi cứ ngỡ như đang gặp một trong mười liệt nữ đã nằm lại nơi đây.
Giữa bạt ngàn thông xanh ở đồi Đồng Lộc, tôi lại nhớ đến mười cây bạch đàn duy nhất sót lại sau chiến tranh. Bây giờ, một tháp chuông bảy tầng đã được dựng lên thật kỳ vĩ và thiêng liêng. Tiếng chuông Đồng Lộc ngân vọng, âm thanh ấy ôm choàng cả khu di tích, cả tượng đài thanh niên xung phong toàn quốc, cả những liệt sĩ pháo phòng không của trung đoàn 210... Tiếng chuông không dành riêng cho một riêng ai. Bởi "bao xương máu mới làm lên Đồng Lộc" (thơ Vương Trọng).
Hà Tĩnh, ngày 15/7/2012
Theo Hội nhà vănViệt Nam
|