Có biết bao nhiêu là thứ phải mang theo vào thế kỷ mới – thế kỷ XXI, nhưng trong hành trang đó không thể không có thơ. Với ý đó, cách nay một con giáp, nhân năm mới 2000 tôi mang câu hỏi:Nếu chỉ được mang theo 05 bài thơ hay nhất viết về chiến tranh cách mạng và Bộ đội Cụ Hồ vào thế kỷ mới thì anh sẽ chọn những bài nào? của ai? tới gõ cửa mấy nhà thơ, nhà lý luận phê bình văn học mặc áo lính là hàng xóm, láng giềng cư ngụ nơi “phố nhà binh” – phố Lý Nam Đế - Hà Nội.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa lúc bấy giờ cùng sinh hoạt ở ban bình luận văn nghệ tạp chí Văn nghệ Quân đội, lại cũng là dân “phố nhà binh” Lý Nam Đế với tôi, nhưng lại diệu vợi hẹn trả lời bằng “văn bản”. Tôi biết anh có thể trả lời đi-rếch nhưng có lẽ do thận trọng hoặc mải xem lại bản bông tập Thời sự làng tôi hoặc ngồi trầm tư ngồi nhấm nháp Chân dung và đối thoại nên phải 24 giờ sau mới chuyển “văn bản” tới. Văn bản đó như một bài báo, có “tít” hẳn hoi là “Ngũ quả thơ”. Nội dung nguyên văn như sau: “Tại sao lại chỉ chọn 5, mà không phải là 10, 15 hay 20 bài?. Chiến tranh cách mạng và người lính là một đề tài lớn. Thành tựu văn học hiện đại của ta phần lớn tập trung ở mảng đề tài này. Nhưng nếu nhất thiết chỉ chọn 5 bài thì để mâm ngũ quả thờ Tết thì tôi đành phải khoanh lại trong cuộc kháng chiến chống Pháp thôi. Cuộc kháng chiến đó đã lùi cách chúng ta một quãng khá xa. Khoảng thời gian ấy đủ lắng lại mọi giá trị giúp chúng ta nhận ra một cách dễ dàng và khách quan những vẻ đẹp đã tương đối ổn định. Mâm ngũ quả thơ của tôi đây: Việt Bắc (Tố Hữu), Tây tiến(Quang Dũng), Nhớ máu (Trần Mai Ninh), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Duyệt binh (Chính Hữu). Thú thực là tôi rất băn khoăn về trường hợp Chính Hữu. Thơ ông bài nào cũng vững chắc. Chọn tác giả hay chọn cả tập thơ thì dễ, nhưng nếu tách ra chỉ lấy một bài và bài ấy lại mang đầy đủ đặc trưng Chính Hữu thì lại khó vô cùng. Nhưng ông không thể không có mặt trong mâm cỗ cúng này. Tôi cũng thực sự tiếc bài Nhớ của Hồng Nguyên. Bài thơ thật là hay, nó gợi được không khí của cả một thời đại. Rồi Núi Đôi của Vũ Cao, Đèo Cả của Hữu Loan, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm... Mới sơ sơ thế đã thấy thiếu nhiều lắm. Nhưng biết làm sao ? Chỉ tại các cụ ta xưa thật oái oăm, để con cháu ta bây giờ táy máy bắt chước. Tại sao các cụ ta không chọn “thập quả” hay “ngũ thập quả” để thờ nhỉ?. Mâm cỗ Tết mà xum xuê thì càng giàu có và thịnh vượng chứ sao?”…
Một con giáp đã trôi qua kể từ những ngày chuyển giao thế kỷ thiêng liêng ấy, mùa xuân vừa rồi – xuân Nhâm Thìn vào dịp kỷ niệm 55 năm tạp chí Văn nghệ Quân đội xuất bản số đầu tiên phát hành rộng rãi trên toàn quốc (01/01/1957 – 01/01/2012), Ban biên tập tạp chí có nhã ý muốn “nêu gương” Hội Nhà văn Việt Nam trong việc tổ chức Ngày Thơ là mời tất cả những nhà thơ đã và đang làm việc ở “nhà số 4” gửi về những câu thơ tâm đắc nhất để không phải thả lên trời mà vẽ trên lồng đèn treo nơi hiên của toà nhà cổ kính bậc nhất Thủ đô hoặc trên cành của hai “cụ đại già” trước cổng toà soạn tạp chí.
Rất nhiều thơ được gửi về, nhiều câu được chọn in trên lịch con rồng năm 2012 của Văn nghệ Quân đội…Trong “vụ” này, Trần Đăng Khoa vẫn luôn là người “tinh quái” và “chắc lép” như 12 năm trước. Anh gửi hẳn một chùm không chỉ là “ngũ quả” Thơ mà là cả “bốn mùa” Thơ, và cũng lại kèm theo vài lời phi lộ: Đây là những câu thơ sơ tuyển của Trần Đăng Khoa, kính gửi sếp Bình, tuỳ sếp chọn. Thơ như sau:
Mùa xuân:
- Trâu đủng đỉnh lắc sừng đi qua ngõ
Hơi sương tan trên những rặng cúc tần
- Vài tán cau mộc mạc
Thả hồn quê lên trời
Mùa hạ:
- Mái tranh ơi hỡi mái tranh
Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương?
- Xóm làng xanh ngát bóng cây
Sông xa trắng cánh buồm bay lưng trời
Mùa thu:
- Gió thổi hai hàng xoan xao xác
Mùa thu đã về đâu đó ở trên không
- Em nhỏ cưỡi trâu về ngõ
Tự mình làm nên bức tranh
- Chiều lên lặng ngắt bầu không
Trâu ai no cỏ thả rông bên trời
Mùa đông:
- Chiều buông ngọn khói hoang sơ
Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây
- Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
Những câu thơ này, nhiều câu đã được thả lên trời trong những ngày Thơ Việt Nam tổ chức ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào ngày Rằm tháng Giêng hàng năm. Câu: Chiều buông ngọn khói hoang sơ/ Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây thì được chọn in một cách trang trọng trên lịch con rồng năm 2012 (cùng với nhiều câu thơ hay khác của các nhà thơ của “nhà số 4” như Vũ Cao, Chính Hữu, Nam Hà, Phạm Ngọc Cảnh, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Anh Ngọc, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Bình Phương …) dành làm quà tặng những bạn đọc, bạn viết thân thiết nhất nhân sinh nhật lần thứ 55 của tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Thoáng vậy mà đã 12 năm, đã thêm một Tết!. Tôi mạn phép nhà thơ viết lại những dòng kỷ niệm này như là một cách để gới thiệu với bạn đọc…hai mâm Ngũ quả cùng những bức tranh Thơ của một “cựu binh” nhà số 4 nhân Tết đến, Xuân về.
Thập Tam trại, xuân Quý Tỵ - 2013
N. V. B
Theo Tạp chí văn nghệ Quân đội