Trang chủ Liên hệ       Thứ bẩy, Ngày 23/11/2024
 
 
THÔNG TIN
Giới Thiệu Hội
Trang Thể Thao
Sức khỏe & Đời sống
Ẩm thực Nghệ Tĩnh
Việt Nam Đất Nước Con Người
Khoa học & Môi Trường
Chuyện lạ đó đây
Nhịp cầu Nhân ái
DANH SÁCH TẤM LÒNG VÀNG
Tin tức Nghệ Tĩnh
Truyền thống Nghệ Tĩnh
Tâm sự cuộc sống
Văn hóa - Xã hội
Văn Nghệ
  -  Văn Thơ Sưu Tầm
  -  Sáng Tác Cộng Đồng
  -  Văn thơ của bạn
Thư Viện
Góc Cười
Tin Trong nước -Tin Quốc Tế -Tin Ucraina
Tin Cộng Đồng
Người Việt Trên Thế Giới
BÀI DỰ THI VỀ XỨ NGHỆ
QUẢNG CÁO

 
Trang chủ > Văn Nghệ > Văn Thơ Sưu Tầm >
  Thềm lục địa phía Nam và những lô nhà giàn DK1 - Đoàn Hoài Trung Thềm lục địa phía Nam và những lô nhà giàn DK1 - Đoàn Hoài Trung , Người xứ Nghệ Kiev
 

 

VanVN.Net đã giới thiệu với bạn đọc một loạt bài về Nhà giàn trên thềm lục địa. Rất nhiều bạn đọc đã hưởng ứng viết thư về tòa soạn muốn tìm hiểu kỹ thêm về thềm lục địa Nam và những lô nhà giàn DK1. Đáp ứng mong muốn của bạn đọc, VanVN.Net trân trọng giới thiệu bài viết tổng hợp các tư liệu về thềm lục địa Nam và những lô nhà giàn DK1 của nhà văn Đoàn Hoài Trung.

Nhà giàn DK1 và tàu

Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của biển Đông, với bờ biển dài 3260 km trải dài từ Bắc xuống Nam. Theo Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 thì nước ta có diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích trên đất liền, chiếm gần 30% diện tích biển Đông. Thềm lục địa của nước ta bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó. (Cũng theo Công ước của Liên hiệp quốc về luật biển 1982 thì nước nào có thềm lục địa tự nhiên quá rộng thì thềm lục địa có thể mở rộng ra tới không quá 350 hải lý kể từ đường cơ sở).

Khu vực thềm lục địa phía Nam nằm ở phía Đông Nam bờ biển Việt Nam; có vị trí nằm trong giới hạn khoảng từ vĩ độ 07010/00//N - 08030/00//N và kinh độ 109000/00//E -  112030/00//E, thuộc tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu. Phía Đông Bắc và Đông khu vực DKI là quần đảo Trường Sa; phía Nam là vùng biển của Việt Nam và vùng biển của cả nước Malaixia, Inđônêxia; Phía Tây là khu vực biển quần đảo Côn Đảo của Việt Nam.

Trong khu vực DKI, nếu lấy bãi cạn Quế Đường là vị trí gần trung tâm nhất thì khoảng cách từ bãi cạn Quế Đường đến Vũng Tàu khoảng 254 hải lý; đến đảo Tri Tôn là quần đảo Hoàng Sa khoảng 481 hải lý; đến đảo Trường Sa thuộc quần đảo Trường Sa khoảng 99 hải lý; đến bờ biển của Malaixia khoảng 286 hải lý; đến đảo Na Tu Na Bắc của Inđônêxia khoảng 233 hải lý; đến khu vực ranh giới ven biển Thái Lan và Malaixia khoảng 509 hải lý. Khoảng cách từ bãi Quế Đường đến bãi Phúc Nguyên khoảng 32 hải lý, đến bãi Tư Chính khoảng 55 hải lý; đến bãi Phúc Tần  khoảng 16 hải lý và đến bãi Ba Kè khoảng 74 hải lý.

Khu vực biển DKI có đáy là một bãi thoải từ bờ kéo dài ra đến độ sâu 200m. Từ độ sâu trên 200m trở ra, độ sâu của đáy biển biến đổi nhanh và có độ dốc rất lớn. Trong khu vực DKI có một dãy cồn cao gần sát mép nước, tạo thành những rạn san hô nổi, các điểm nhô cao cách mặt nước trong khoảng 3m-20m; có 9 vị trí bãi ngầm được đặt tên: Tư Chính, Phúc Nguyên, Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, bãi Vũng Mây, bãi Ba Kè, bãi Đất, bãi Đinh. Các bãi này hình thành, phát triển theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.

Bãi ngầm Tư Chính nằm ở trong giới hạn khoảng  từ vĩ độ 0702903”N -  0703320”N và kinh độ 109037730”E - 10905458”E, cách bãi Quế Đường  55 hải lý về phía Tây Nam. Điểm nhô cao nhất của bãi Tư Chính sâu cách mặt nước khoảng 16m, vị trí cách Vũng Tàu khoảng 229 hải lý về phía Đông Nam. Bãi ngầm Tư Chính có vị trí rất quan trọng trong xây dựng, phát triển kinh tế biển và công tác quản lý chủ quyền biển trên khu vực DKI; phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 16m đến độ sâu 200m DKI; phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 16m đến độ sâu 200m có độ dài khoảng 57 km, chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 13km, hướng phát triển chạy dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam. Tư Chính là bãi ngầm lớn, ở cạnh đường hàng hải quốc tế, nên có vị trí rất quan trọng đối với việc tổ chức lực lượng thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trên biển và quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc.

Đặc điểm nổi bật của khu vực Tư Chính là nằm cạnh đường hàng hải quốc tế là khu vực hoạt động nhạy cảm và hết sức phức tạp, “nước ngoài” thường xuyên sử dụng tàu nghiên cứu, tàu cải dạng, tàu chiến vào thăm dò địa chấn, trinh sát, quấy rối, vi phạm chủ quyền của ta. Ngoài ra, có nhiều tàu cá Trung Quốc, Hồng Công, Philippin, xuống đánh bắt trái phép hải sản khu vực này. Hoạt động của tàu nước ngoài tập trung vào các tháng 3, 4, 5 và tháng 9 tháng 10, thời kỳ sóng yên, biển lặng. Bởi vậy công tác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ các nhà trạm Tư Chính luôn căng thẳng, đặt ra yêu cầu rất cao.

Bãi Phúc Nguyên nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 07048’10”N-07055’00”N và kinh độ 109055’55”E – 100000’00”E; cách Vũng Tàu khoảng 255 hải lý về phía Đông Nam. Tiếp giáp với bãi ngầm Phúc Nguyên về phía Tây Nam là bãi ngầm Tư Chính; phía Đông là bãi ngầm Quế Đường; phía Đông Bắc là bãi ngầm Phúc Tần và phía Đông Đông Bắc là bãi ngầm Huyền Trân.

Bãi ngầm Phúc Nguyên, theo truyền thuyết kể lại là Nguyễn Phúc Nguyên, con thứ sáu của đức Triệu Tổ Nguyễn Hoàng và Hoàng Hậu họ Nguyễn, ngài sinh ngày 28 tháng 07 năm Quý hợi (16/08/1563), khi Hoàng Hậu có thai chiêm bao thấy thần nhân cho tờ giấy viết đầy chữ “Phúc”, nhiều người đề nghị Bà lấy chữ “Phúc” đặt tên con thì Bà cho rằng nếu đặt  tên con thì chỉ một người được hưởng phúc. Bà bèn đặt tên con là Nguyễn Phúc Nguyên; bãi Phúc Nguyên là một bãi thoải không đều, nằm chìm dưới mực nước biển; điểm nhô cao nhất nằm cách mặt nước khoảng 18m, điểm nhô thấp nhất nằm sâu cách mặt nước tới 200m. Từ độ sâu 200m trở ra, độ sâu của đáy tiềm đổi nhanh và có độ dốc rất lớn. Phạm vi nằm ở độ sâu khoảng 16m – 200m, bãi ngầm Phúc Nguyên có chiều dài khoảng 30km, chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 21km, phát triển chiều dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, đặt ở vị trí độ sâu mực nước trung bình 21m. Đầu tháng 12 năm 1998, cơn bão số 8 một cơn mạnh tràn qua vùng biển DKI. Nằm trong khu vực trọng điểm của bão, trong tình thế hiểm nghèo, dưới sự chỉ huy của đồng chí Trạm trưởng, Đại úy Vũ Quang Chương, cùng với 8 cán bộ, QNCN của Nhà giàn DKI/6 Phúc Nguyên đã kiên trì bám trụ, liên tục giữ vững thông tin liên lạc và báo cáo chính xác mọi diễn biến về Sở chỉ huy; bình tĩnh, dũng cảm chống chọi với bão; dự kiến những tình huống xấu nhất có thể xảy ra và tìm mọi biện pháp nhằm giảm thấp nhất thiệt hại về người và trang bị. Giữa biển khơi mênh mông, đêm tối mịt mù, với sóng, gió, vừa mệt, vừa đói, rét, 9 cán bộ, nhân viên nhà giàn - một tập thể vẫn kiên cường, với tinh thần còn người, còn nhà trạm, kiên quyết bám trụ bảo vệ nhà giàn đến cùng. Trong một thời gian dài, liên tiếp gồng mình chống chọi với những trận cuồng phong; những cơn sóng lớn, đỉnh sóng cao 14m – 15m đánh mạnh trùm kín qua cả sàn công tác của nhà giàn, cùng với sức gió giật mạnh làm cho nhà giàn bị rung chấn dữ dội và nghiêng, lắc mạnh. Vào lúc 3 giờ sáng ngày 12 tháng 12 năm 1998, thời điểm mà sức mạnh và sự tàn phá của bão số 8 lên đến đỉnh điểm, cũng là lúc nhà giàn DKI/6 Phúc Nguyên bị đổ, cả 9 đồng chí của nhà giàn bị hất tung xuống biển. Ngay sau đó, lực lượng tàu trực cấp cứu của Hải quân đã khẩn trương, tích cực tổ chức tìm kiếm, cấp cứu những cán bộ, chiến sỹ bị nạn trong cơn bão; đến 3 ngày sau tàu HQ 606 đã phát hiện, cấp cứu được 6 đồng chí, còn lại 3 đồng chí là: Đại úy, Trạm trưởng Vũ Quang Chương; Chuẩn úy chuyên nghiệp Rađa, Lê Đức Hồng và Chuẩn úy chuyên nghiệp cơ điện, Nguyễn Văn An mãi mãi ở lại với biển khơi, thi thể các anh đã hóa thân vào với sóng, gió, nước của đại dương mênh mông, nhưng tinh thần quả cảm, tấm gương anh dũng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ nhà giàn, bảo vệ chủ quyền, vùng biển, thềm lục địa của Tổ quốc mãi mãi in đậm trong nỗi tiếc thương, sự cảm phục và cả niềm kiêu hãnh của cán bộ, chiến sỹ Hải quân. Sau khi nhà giàn DKI/6 bị đổ, tháng 4 năm 1995, Trạm kinh tế - khoa học - dịch vụ Phúc Nguyên 2 (DKI/15) được xây dựng tại vĩ độ 07048’10”N và kinh độ 109055’55”E tại bãi cạn Phúc Nguyên. Công trình có chiều cao 47,45, tổng diện tích 310m2, tổng trọng lượng công trình 493 tấn; từ đây trên bãi cạn Phúc Nguyên, nhà giàn DKI/15 tiếp tục sứ mệnh lịch sử làm nhiệm vụ chốt giữ, bảo vệ nhà trạm và vùng biển, vùng trời được phân công.

Bãi ngầm Phúc Tần nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 08004’24”N – 08009’44”N và kinh độ 110028’10”E – 110035’47”E, cách bãi ngầm Quế Đường 22 hải lý về phía Bắc. Bãi Phúc Tần, Huyền Trân hợp với nhau thành một nhóm, điểm nhô cao nhất của Phúc Tần dưới mặt nước khoảng 5,5m, cách Vũng Tàu khoàng 243 hải lý về phía Đông Nam. Phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 5,5m đến độ sâu 200m, có chiều dài khoảng 28km, chiều rộng nhất khoảng 26km, hướng phát triển cánh cung, đầu nhô cánh cung theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.

Tương truyền kể lại rằng, Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Tần, con thứ hai của đức Thần Tông Nguyễn Phúc Lan và Hoàng Hậu họ Đoàn (không rõ tên). Ngài sinh ngày 19 tháng 6 năm Canh thân (18-07-1620). Lúc làm Thế tử, ngài được phong là Thái phó Dũng Lễ Hầu. Ngài là một võ tướng có tài. Năm Giáp thân (1644) ngài đốc suất các chiến thuyền vây đánh ba chiếc tàu của người Hà Lan tại cửa Eo làm thuyền trưởng phải tự tử, hai chiếc bỏ chạy, một chiếc bị va vào đá ngầm chìm, đức Thần Tông mừng và khen rằng: “Trước kia Tiên quân ta đã từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế, ta không còn lo gì nữa”. Thực hiện chủ trương xây dựng Cụm kinh tế khoa học dịch vụ (DK1), ngày 10 đến 15 tháng 06 năm 1989, Bộ Giao thông Vận tải phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh tiến hành lắp xong nhà giàn đầu tiên tại bãi ngầm Phúc Tần (tên địa danh hành chính là Trạm kinh tế khoa học - dịch vụ Phúc Tần, thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Nhà giàn Phúc Tần (DKI/3) có diện tích sử dụng là 144m2, cách mặt nước biển lúc triều cường là 10,5m.

Đầu tháng 12 năm 1990, cơn bão số 10 tràn qua khu vực DKI với gió mạnh cấp 10, cấp 11. Đêm ngày 4 tháng 12 năm 1990, nhà giàn Phúc Tần bị sóng dâng cao 14m – 15m đánh nghiêng 150, phá vỡ các sàn ghi tầng dưới và đến hơn 2 giờ ngày 05 tháng 12, toàn bộ khối nhà bị đổ xuống biển. Lúc này Trạm trưởng nhà giàn là Trung úy Bùi Xuân Bổng; Trạm phó Chính trị là Trung úy Nguyễn Hữu Quảng đã bình tĩnh chỉ huy bộ đọi sử dụng các phao, xuồng cứu sinh rời nhà và thường xuyên điện báo về Sở chỉ huy, đến phút cuối cùng mới rời vị trí. Sau khi nhận được điện báo nhà giàn Phúc Tần bị đổ, Quân chủng Hải quân đã lệnh cho các tàu trực trên khu vực là HQ711 đã phát hiện cấp cứu được 5 cán bộ, chiến sĩ trong đó có đồng chí Trạm trưởng. Các ngày tiếp theo Quân chủng tiếp tục đưa tàu HQ07, HQ11, HQ682 đi tìm kiếm 3 đồng chí còn lại. Do sóng to, gió lớn việc cứu nạn rất khó khăn, các tàu đã không tìm thấy các đồng đội của mình bị sóng đánh trôi dạt. 03 cán bộ, chiến sĩ của nhà giàn Phúc Tần, Trung úy Nguyễn Hữu Quảng, Trạm phó Chính trị người con của thủ đô Hà Nội; Trung úy chuyên nghiệp Trần Văn Là, quân y  và Hạ sĩ  Hồ Văn Hiền, nhân viên cơ điện, mãi mãi ở lại với biển cả, các anh đã anh dũng huy sinh vì sự nghiệp bảo vệ thềm lục địa phía Đông Nam của Tổ quốc.

Bãi Huyền Trân hợp với Phúc Tần thành một nhóm. Bãi Huyền Trân nằm về phía Nam Phúc Tần nằm ở vĩ độ 08001’30”N và kinh độ 110037’10”E, điểm nhô cao nhất của Huyền Trân dưới mặt nước khoảng 5,5m, cách Vũng Tàu khoảng 253,5 hải lý về phía Đông Nam. Phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 5,5m đến 200m, có chiều dài khoảng 28km, chiều rộng nhất khoảng 26km, hướng phát triển cánh cung, đầu nhô cánh cung theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.

Truyền thuyết kể lại, Huyền Trân, Bà sinh vào năm 1287, một công chúa đời nhà Trần, là con gái của vua Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành (Champa) là Chế Mân (tiếng Phạn: Jaya Sinhavarman III) để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay). Vào năm 1293, vua Trần Nhân Tông thoái vị, hoàng thái tử Trần Nguyên lên nối ngôi (tức là hoàng đế Trần Anh Tông). Vua Trần Nhân Tông trở thành Thái thượng hoàng, lên tu ở núi Yên Tử. Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được vua Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, có ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Trần Nhân Tông có hứa gả con gái là Huyền Trân cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là hoàng hậu Tapasi, người Java (Nam Dương ngày nay). Sau đó, nhiều lần Chế Mân sai sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng triều thần nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc Vương Đạo Tái và Nhập nội thành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.

Bãi ngầm Quế Đường là một bãi ngầm thuộc thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc; nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 07047’08”N - 07048’37”N và kinh độ 110027’11”E - 110029’29”E. Từ bãi Quế Đường đến Vũng Tàu khoảng 254 hải lý, đến đảo Tri Tôn quần đảo Hoàng Sa khoảng 481 hải lý, đến đảo Trường Sa khoảng 99 hải lý, đến bờ biển Malaixia khoảng 286 hải lý, đến đảo Natunapắc của Inđônêxia khoảng 233 hải lý, đến khu vực ranh giới ven biển Thái Lan và Malaixia khoảng 509 hải lý; đến bãi Phúc Nguyên khoảng 32 hải lý, đến Tư Chính khoảng 55 hải lý, đến bãi Phúc Tần khoảng 22 hải lý, đến Ba Kè khoảng 55 hải lý. Điểm nhô cao nhất của Quế Đường cách mặt nước khoảng 11m. Phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 11m đến độ sâu 200m, có chiều dài khoảng 13km, chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 7,5km, hướng phát triển chạy dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.

Quế Đường là lấy theo tên phong truyền của Lê Quý Đôn, Lê Quý Đôn là con trai cả của ông Lê Trọng Thứ. Thân sinh của Lê Quý Đôn đậu tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (1721) và làm quan đến chức Hình Bộ Thượng Thư, được phong tước hầu. Thuở nhỏ, ông có tên là Danh Phương, đến năm 1743 sau khi đỗ giải nguyên trường  Sơn Nam thì đổi thành Quý Đôn; tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Còn theo tên khoa học “Quế Đường” là một loại giống mía mới.

Bãi ngầm Ba Kè nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 07032’34”N - 07053’37”N và kinh độ 111032’34”E - 111045’42”E, gồm các bãi Vũng Mây, bãi Ba Kè, bãi Đất , bãi Đinh, các vị trí bãi ngầm này khoảng từ 3,2m – 100m; bãi ngầm nằm theo hướng Bắc Đông Bắc – Tây Tây Nam, vị trí cách bãi Quế Đường 74 hải lý về phía Đông. Chiều dài bãi ngầm khoảng chừng 50km; chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 24km. Điểm bãi ngầm Ba Kè có độ sâu 3,2 dưới mặt nước, vị trí cách Vũng  Tàu khoảng 579 km về phía Đông Nam.

Ba Kè (địa danh căn cứ Cách mạng). Tên địa danh Ba Kè thuộc thị trấn Cái Ngang - huyện Tam Bình – Vĩnh Long “Từ cuối năm 1946 đến cuối tháng 9 năm 1949, các lực lượng vũ trang đánh địch hàng chục trận trên các tuyến lộ giao thông và đồn bót giải phóng hoàn toàn huyện Tam Bình, thị trấn Cái Ngang, Ba Kè... Đầu năm 1949, lần đầu tiên lực lượng vũ trang Vĩnh Long dùng súng bộ binh bắn tan xác một chiếc máy bay của địch tại quận lỵ Tam Bình”.

Các bãi ngầm trong thềm lục địa DKI được cấu tạo bởi các lớp thủy thạch tra có độ dày tương đối lớn. Các bãi san hô ở đây phát triển trên thềm lục địa có độ sâu dày từ 500m – 1700m; trải qua nhiều thời kỳ biến đổi của thiên nhiên, các lớp san hô ở đây phát triển chồng lên nhau, tạo thành các bãi san hô. Cùng với thời gian và những chấn động của địa chất, các đám san hô và các vùng đáy biển nông mỗi ngày một phát triển, nhưng do điều kiện phát triển không đều nên tạo thành những vòng san hô ngầm và các bãi san hô ngầm ở khu vực thềm lục địa DKI.

Điều kiện khí tượng hải văn ở khu vực biển DKI thể hiện rõ nét đặc trưng khí tượng của biển và Đại Dương: Mùa hè tiết trời mát mẻ, mùa đông ấm hơn trong đất liền. Chế độ gió, thường có gió mạnh xuất hiện từ tháng 11 năm trước đến tháng 2 năm sau, đây là thời kỳ thịnh hành của gió mùa Đông Bắc. Tháng tư và tháng 10 là tháng ít có gió mạnh (vận tốc trung bình dưới 5m/giây), rất thuận tiện cho hoạt động của tàu thuyền. Từ tháng 6 đến tháng 9 là thời kỳ thịnh hành của gió mùa Tây Nam, thời gian này số ngày có gió mạnh bắt đầu tăng lên, trong tháng trung bình từ 10-15 ngày có gió mạnh.

Bão, thường xuất hiện từ tháng 10 năm trước đến tháng 1 năm sau, trong đó tháng 11 là tháng có tần suất bão đi qua lớn nhất trong năm; trung bình hàng năm có 2-4 cơn bão và áp thấp nhiệt đới hoạt động, với cường độ không lớn lắm và thường di chuyển theo hướng Tây – Tây Nam. Thời tiết ở khu vực này chia làm hai mùa; mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường xuất hiện từ tháng 5 trước đến tháng 1 năm sau; mùa khô từ tháng 2 đến tháng 4 trong năm.

Chế độ sóng, trong năm có 2 mùa rõ rệt, phù hợp với 2 mùa gió (Đông Bắc và Tây Nam) có 2 hướng sóng đối lập nhau. Gió mùa Đông Bắc, hướng sóng chiếm ưu thế là hướng Đông Bắc, sau đó đến hướng Bắc hoặc hướng Đông; độ cao sóng trung bình khoảng 2m đến 2,5m, cực đại có thể đến 8m . Gió mùa Tây Nam, sau đó đến Tây  hoặc Nam, độ cao trung bình khoảng 1,5m- 1,7m, cực đại có thể đến 6m (không kể sóng trong bão). Trong các tháng chuyển tiếp (tháng 4 hoặc tháng 10), hướng sóng thay đổ theo hướng gió, không ổn định.

Chế độ dòng chảy ở đây là dòng chảy xoáy ở phạm vi lớn (do bãi ngầm luôn chìm sâu và phần lớn cách mặt nước từ 20m-100m). Đầu mùa hè dòng chảy thịnh hành theo hướng Đông Bắc, có vận tốc cực đại từ 1,5 đến 1,8 hải lý/giờ. Thời kỳ chuyển tiếp từ mùa hè sang mùa đông, dòng chảy thịnh hành theo hướng Đông, vận tốc trung bình từ 0,2 đến 0,4 hải lý/giờ. Thời kỳ chuyển tiếp mùa đông sang hè, dòng chảy thịnh hành theo hướng Bắc với vận tốc trung bình khoảng 0,3 đến 0,4 hải lý/giờ. Độ mặn của nước biển trong khu vực DKI khoảng 33,4 đến 34 phần nghìn, tương đối đồng nhất và thấp hơn so với một số khu vực ở quần đảo Trường Sa.

Khu vực vùng biển DKI nằm án ngữ đường hàng hải quốc tế quan trọng, từ Đông Bắc Á xuống Đông Bắc Nam Á và tuyến đường hàng hải chính qua Biển Đông. Là khu vực biển có nguồn hải sản phong phú, với trữ lượng lớn, trong đó có nhiều loại thuộc dòng quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Đồng thời đây cũng là khu vực có nhiều mỏ dầu và khí tự nhiên với trữ lượng lớn, Việt Nam đã và đang khai thác phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa,  hiện đại hóa đất nước.

Với vị trí địa lý quan trọng và nguồn tài nguyên phong phú như vậy, nên vùng biển DKI có vai trò vô cùng quan trọng cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng – an ninh và đối ngoại của nước ta. Song về điều kiên thời tiết khí hậu, hải văn ở đây diễn biến rất phức tạp, gây nhiều khó khăn cho các hoạt động hoạt động tuần tra, kiểm soát, đóng quân chốt giữ bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo và thềm lục địa của Tổ quốc của các lực lượng Hải quân Việt Nam ở khu vực này.

Ngày 5 tháng 7 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (nay là Chính phủ) đã ra chỉ thị số 160/CT chính thức tuyên bố thành lập Cụm kinh tế – khoa học – dịch vụ thuộc sự quản lý hành chính của Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo.

Năm 1989, Quân chủng Hải quân phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh, Bộ Giao thông Vận Tải, Tổng cục dầu khí triển khai xây dựng 3 nhà giàn đầu tiên tại bãi ngầm Tư Chính (Lô 1), Phúc Tần (Lô 3) và Ba Kè (Lô 6). Năm 1990 đến 1991, tiếp tục xây dựng 3 nhà giàn trên các bãi ngầm còn lại là Phúc Nguyên (Lô 2); Huyền Trân (Lô 4) và Quế Đường (Lô 5).

Tiếp theo, từ năm 1993 đến 1998, Đảng Nhà nước tập trung đầu tư lớn, xây dựng phát triển mạnh số lượng, nâng cao chất lượng bền vững và khả năng hoạt động của các nhà giàn trên các bãi ngầm Lô 1, Lô 2, Lô 3, Lô 4, Lô 5 và Lô 6.

 Hiện nay có  nhiều nhà giàn hiện diện vững chắc trên các bãi ngầm khu vực DKI; thường trực tại đây có các lực lượng bộ đội Hải quân, cùng cán bộ, nhân viên của các ngành bảo đảm hàng hải, khí tượng, thủy văn, dầu khí ngày đêm làm nhiệm vụ bảo vệ và phục vụ quốc kế dân sinh.

 Trải qua  23  năm xây dưng lực lượng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ các trạm Dịch vụ kinh tế – khoa học kỹ thuật DKI, cùng với các lực lượng tàu của Lữ Đoàn 171, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn DK1 luôn thể hiện lòng trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, đoàn kết, vững vàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ hoàn thành tốt nhiệm vụ chốt giữ, bảo vệ chủ quyền vùng biển, thềm lục địa Tổ quốc; bảo vệ an toàn các nhà giàn. Năm 2000, Tiểu đoàn DK1 được Bộ trưởng Quốc phòng tặng Bằng khen; năm 2001, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, năm 2004 được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba, đặc biệt năm 2005 được Nhà nước tuyên dương “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới”, năm 2007, 2008 được Bộ Tư lệnh Hải quân tặng thưởng Đơn vị quyết thắng, năm 2009 nhân dịp Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì, năm 2010 được Bộ tư lệnh Hải quân tặng thưởng Đơn vị quyết thắng. Đây là sự ghi nhận những thành tích, chiến công xuất sắc của các thể hệ cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn DK1 trong xây dựng đơn vị và hoạt động sẵn sàng chiến đấu bảo vệ DKI; đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của lực lượng chốt giữ bảo vệ DKI nói riêng, sự trưởng thành của Hải quân nhân dân nói chung trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo và thềm lục địa của Tổ quốc.

 

              Theo Hội nhà văn Việt Nam


  Các Tin khác
  + Tháng giêng non thương mùa nắng hạ (19/09/2024)
  + Những hàng thông lặng im (19/09/2024)
  + MẮT TRĂNG (19/09/2024)
  + LÒNG TỰ TÔN (01/08/2024)
  +  CHUYỆN O NẬY (31/07/2024)
  + THÁNG BẢY VỀ.. (25/07/2024)
  + MÙA HOA GẠO (25/07/2024)
  +  TRƯỚC KHI QUÁ MUỘN (25/07/2024)
  +  NHẶT MẸ VỀ NUÔI (25/07/2024)
  + HÀNG THẢI (31/05/2024)
  + NỖI ĐAU BỊ LỪA DỐI. (31/05/2024)
  + VÙNG KÍ ỨC TRẮNG (30/05/2024)
  + Dưới ánh sương mai (26/05/2024)
  + VẰNG VẶC CHỮ TÂM (Thơ BÙI NGỌC BÍCH) (19/02/2024)
  + ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY Thơ Trần Huy Liệu Lời bình Bùi Ngọc Bích (19/02/2024)
  + GIÓ MÙA (02/11/2023)
  + TẢN MẠN CUỐI THU (02/11/2023)
  + Truyện ngắn. MỘT KIẾP NGƯỜI. (02/11/2023)
  + DỊU DÀNG MÙA THU (04/09/2023)
  + Thơ Nguyễn Hữu Quý - ĐÃ TỚI MÙA ĐÔNG (11/11/2022)
Playlist

GIỚI THIỆU
QUẢNG CÁO
Thống kê
Guests online: 9
Total: 65163158

 
 
 
Người xứ nghệ Kiev
Designed by July