Làng hoa Hà Nội giữa thành phố hoa Đà Lạt Làng hoa Hà Nội giữa thành phố hoa Đà Lạt , Người xứ Nghệ Kiev
12/08/2020
(HNMCT) - Nơi cao nguyên Lâm Viên xa xôi có một phần “máu thịt của Thủ đô” - những cư dân các làng hoa bên hồ Tây của Hà Nội xưa đã giã biệt cố hương “hành phương Nam” lập nghiệp từ những năm ba mươi của thế kỷ trước. Họ đã khai canh, lập làng trồng hoa đặt tên là ấp Hà Đông, một trong ba ấp người Việt của Đà Lạt thuở ban đầu…
1. Từ nơi tôi ở đến làng hoa Hà Đông không xa lắm. Nhờ vậy mà tôi đã chứng kiến bao chuyện buồn vui của làng hoa trong mấy thập niên qua. Tôi đã thấy người làng hoa trăn trở cùng cây, cùng đất qua nhiều chặng thời gian để bây giờ nơi đây trở thành một điểm đến thú vị. Tôi đã ngắm những tấm ảnh phủ bóng thời gian được lưu giữ như báu vật ở nơi trang trọng nhất của Nhà văn hóa làng...
Lần này trở lại, người kể cho tôi về lịch sử làng hoa Hà Đông trong một buổi chiều mười mấy năm trước đã mất. Cụ Ngô Văn Bính, quê ở làng Quảng Bá bên hồ Tây của Hà Nội, là một trong những người có mặt từ buổi đầu lập làng. Vốn là thợ sắp chữ ở tòa báo La Voulte, một hôm cụ Bính đọc được trên chính tờ báo ấy tin tuyển mộ người đi lập nghiệp ở Đà Lạt. Đang tuổi tráng niên lại sẵn tính phiêu lưu, chàng trai Ngô Văn Bính không ngần ngại lên đường, hòa vào dòng lưu dân là những đồng hương làng Quảng Bá, Nghi Tàm, Tây Tựu, Ngọc Hà, Xuân Tảo..., thuở ấy thuộc tổng Hà Đông.
Lần này trở lại, người kể cho tôi về lịch sử làng hoa Hà Đông trong một buổi chiều mười mấy năm trước đã mất. Cụ Ngô Văn Bính, quê ở làng Quảng Bá bên hồ Tây của Hà Nội, là một trong những người có mặt từ buổi đầu lập làng. Vốn là thợ sắp chữ ở tòa báo La Voulte, một hôm cụ Bính đọc được trên chính tờ báo ấy tin tuyển mộ người đi lập nghiệp ở Đà Lạt. Đang tuổi tráng niên lại sẵn tính phiêu lưu, chàng trai Ngô Văn Bính không ngần ngại lên đường, hòa vào dòng lưu dân là những đồng hương làng Quảng Bá, Nghi Tàm, Tây Tựu, Ngọc Hà, Xuân Tảo..., thuở ấy thuộc tổng Hà Đông.
Đầu thế kỷ XX, Đà Lạt phát triển theo hướng đô thị nghỉ dưỡng. Năm 1936, triều đình Huế lập tại đây một cơ quan hành chính của người Việt. Vị Quản đạo đầu tiên của Đà Lạt là ông Trần Văn Lý sớm nhận thấy vùng đất màu mỡ này còn hoang sơ, khí hậu mát mẻ, thích hợp để trồng rau, hoa và đã đưa ra sáng kiến lập ấp trồng rau, hoa tươi đáp ứng nhu cầu tại chỗ. Được người Pháp đồng ý, ông Lý đề nghị Tổng đốc Hà Đông kiêm Chủ tịch Ủy ban Tương tế xã hội trung ương Bắc Kỳ Hoàng Trọng Phu về việc mộ dân ngoài Bắc vào. Tổng đốc Hoàng Trọng Phu lệnh cho Thương tá canh nông Hà Đông là ông Lê Văn Định xây dựng kế hoạch đưa dân Hà Đông vào Đà Lạt khai hoang lập ấp. Ngày 31-5-1938, nhóm đầu tiên gồm 35 người đã đặt chân đến Đà Lạt. Đầu năm 1939 có thêm 19 người và năm 1940 - 1942 lại có thêm 47 người nữa...
Sự có mặt của những lưu dân đặt dấu mốc hình thành một vùng cư dân mới của thành phố cao nguyên, là minh chứng sinh động về ý chí của người Hà Nội đi dựng xây quê mới. Dân cư ngày càng đông, cuộc sống trên vùng đất mới dần ổn định, những lưu dân có nhu cầu hình thành một đơn vị hành chính. Ban đầu họ đề nghị lấy tên "Hoàng Trọng Phu" để đặt tên ấp nhưng quan Tổng đốc từ chối và gợi ý đặt tên “Hà Đông” để con cháu mai sau nhớ mãi cội nguồn...
2. Trên hành trình phát triển của đô thị cao nguyên, hệ giá trị của làng hoa truyền thống Hà Đông luôn được ghi nhận.
Qua bao thăng trầm lịch sử, người làng hoa Hà Đông vẫn gìn giữ nghề xưa, phát triển vùng chuyên canh hoa thương phẩm chất lượng cao, một điểm du lịch canh nông nổi tiếng với 500 hộ dân trồng hoa trên diện tích canh tác hơn 53ha, thu hút gần 1.000 lao động. Năm 2009, làng hoa Hà Đông được tỉnh Lâm Đồng cấp bằng chứng nhận “Làng nghề truyền thống” và thành phố Đà Lạt tặng danh hiệu “Làng hoa đầu tiên”.
Năm 2017, Thành ủy Đà Lạt ban hành nghị quyết chuyên đề về “Phát triển các làng hoa trên địa bàn thành phố Đà Lạt đến năm 2020, định hướng đến năm 2025”. Thành phố cũng triển khai “Đề án phát triển Làng hoa Hà Đông, phường 8, thành phố Đà Lạt”. Theo đó, hướng phát triển của làng hoa Hà Đông là: “Áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao gắn với phát triển đa dạng sản phẩm, dịch vụ du lịch nông nghiệp công nghệ cao. Phấn đấu xây dựng nơi đây trở thành điểm tham quan du lịch có chất lượng đặc thù phục vụ khách thông qua xây dựng các tuyến, tour đến các khu trồng trọt, các điểm, các cơ sở chế biến...”.
Những ghi nhận, định hướng đó đã mở ra vận hội mới cho làng hoa có lịch sử gần một thế kỷ.
Trò chuyện với người làng hoa, càng hiểu thêm tâm huyết giữ gìn, phát triển nghề truyền thống mà cha ông họ dày công khởi dựng. Tạ Minh Quân là người trồng hoa thế hệ thứ ba ở làng hoa Hà Đông. Với 4.000m2 đất, vợ chồng anh đã có hơn 20 năm theo đuổi nghề trồng hoa. “Cũng có bận lao đao, có lúc tưởng chừng vỡ nợ do tính toán chưa kỹ và đầu tư không đúng hướng”, Quân kể. Nhờ những kinh nghiệm đắt giá, từ năm 2006 đến nay, nhà vườn Tạ Minh Quân liên tục gặt hái thành công. Hoa cúc trồng trong nhà kính của anh được tiêu thụ nhiều ở thị trường trong nước và cung cấp cho Công ty Rừng hoa Đà Lạt xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Cũng ở làng hoa Hà Đông nhưng quy mô sản xuất lớn hơn và có chủng loại hoa khác với nhà vườn Tạ Minh Quân, trang trại hoa hồng môn của nghệ nhân Vũ Nhuần là một địa chỉ nổi tiếng từ lâu. Gia đình ông vừa sản xuất, cung ứng hoa thương phẩm ra nhiều thị trường, vừa khai thác du lịch trải nghiệm tại vườn. Tự hào với lịch sử của làng, ông Vũ Nhuần nói: “Gia đình tôi ba đời làm nghề trồng hoa. Tôi là người đầu tiên ở làng ứng dụng công nghệ trồng hoa trong nhà kính. Chúng tôi tập trung đầu tư ứng dụng các kỹ thuật mới, chọn giống mới nhằm đem lại sản phẩm chất lượng và giá trị kinh tế cao hơn. Bề dày lịch sử, truyền thống nghề trồng hoa của làng luôn hấp dẫn du khách khi họ đến thành phố hoa”.
3. Lần nào cũng vậy, trong câu chuyện với người làng hoa Hà Đông, dù chuyện cũ hay chuyện mới tôi đều cảm nhận họ vẫn giữ được cốt cách của người kinh kỳ dù đã tha hương gần một thế kỷ.
“Người làng hoa Hà Đông vẫn giữ được nét văn hóa làng xưa quê cũ. Những buổi tế đình, cúng họ, những phong tục, tập quán của nơi bản quán vẫn được giữ gìn ở quê mới này. Người làng hoa coi đó là điều cần trân quý, gìn giữ cho con cháu mai sau” - ông Phan Hữu Giản quê gốc ở làng Tứ Liên gần hồ Tây, tâm sự. Ông Giản thuộc thế hệ cán bộ lãnh đạo đầu tiên của vùng kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng. Khi huyện Lâm Hà được thành lập trên nền vùng kinh tế mới, ông làm Bí thư Huyện ủy nhiều khóa, sau đó giữ cương vị Bí thư Thành ủy Đà Lạt rồi Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Lâm Đồng.
Là một người con Hà Nội gắn bó cả cuộc đời với vùng đất Tây Nguyên, sau khi nghỉ hưu, ông chọn làng Hà Đông làm nơi an cư. Ông nói: “Tuổi già không về được nơi chôn nhau cắt rốn nên chọn nơi đây sống những ngày còn lại của cuộc đời, hằng ngày được hít thở giữa không gian làng ấp, hòa mình với đời sống bà con đồng hương, được nói giọng Hà Nội gốc với những người cùng quê cũng vơi đi phần nào nỗi nhớ cố hương”. Ông Giản là một trong những người vận động Hội Đồng hương Hà Nội tại Đà Lạt, Lâm Đồng góp công góp của xây dựng Nhà Văn hóa truyền thống Làng hoa Hà Đông - công trình chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội (năm 2010)...
Thành phố Đà Lạt đã ở tuổi 127. Theo hành trình phát triển, ấp Hà Đông cũng đã có lịch sử 82 năm. Qua bao thăng trầm, người làng hoa Hà Nội đi lập nghiệp trên vùng đất cao nguyên vẫn giữ cốt cách hào hoa, thanh lịch và bản tính cần cù, chịu khó. Họ mang theo giọng nói gốc của người Hà Nội xưa và “gánh” vào vùng đất Tây Nguyên hoang dã những nét văn hóa ngàn năm sông Hồng. Họ góp công sức, góp máu xương để bảo vệ, kiến tạo miền quê hương mới. Và dù xa xứ đã qua nhiều thế hệ nhưng họ vẫn bồi hồi xao xuyến mỗi khi nhắc về cố hương.
Đó chính là mạch nguồn kết nối của những người mang trong mình tình cảm tri ân cả hai vùng quê, cành ngọn ở trời Nam mà gốc rễ cắm sâu từ đất Bắc...