Trang chủ Liên hệ       Thứ sáu, Ngày 26/04/2024
 
 
THÔNG TIN
Giới Thiệu Hội
Trang Thể Thao
Sức khỏe & Đời sống
Ẩm thực Nghệ Tĩnh
Việt Nam Đất Nước Con Người
Khoa học & Môi Trường
Chuyện lạ đó đây
Nhịp cầu Nhân ái
DANH SÁCH TẤM LÒNG VÀNG
Tin tức Nghệ Tĩnh
Truyền thống Nghệ Tĩnh
Tâm sự cuộc sống
Văn hóa - Xã hội
Văn Nghệ
  -  Văn Thơ Sưu Tầm
  -  Sáng Tác Cộng Đồng
  -  Văn thơ của bạn
Thư Viện
Góc Cười
Tin Trong nước -Tin Quốc Tế -Tin Ucraina
Tin Cộng Đồng
Người Việt Trên Thế Giới
BÀI DỰ THI VỀ XỨ NGHỆ
QUẢNG CÁO

 
Trang chủ > Văn Nghệ >
  BÀI THƠ HAY NHẤT VỀ THĂNG LONG CỦA NGUYỄN DU - Nhà thơ Vương Trọng dịch và giới thiệu BÀI THƠ HAY NHẤT VỀ THĂNG LONG CỦA NGUYỄN DU - Nhà thơ Vương Trọng dịch và giới thiệu , Người xứ Nghệ Kiev
 

Ảnh minh họa - Internet

Sinh thời, Đại thi hào Nguyễn Du có năm bài thơ chữ Hán về Thăng Long, trong đó "Long thành cầm giả ca", tức "Bài ca người gảy đàn đất Long Thành" là nổi tiếng hơn cả. Bài thơ này cụ viết vào mùa xuân năm 1813, trên đường đi sứ Trung Quốc, đến nay, đã 200 năm. Mở đầu bài thơ là lời “Tiểu dẫn” của tác giả dài khoảng ba trăm từ, bằng văn xuôi, có những đoạn như sau: "Người gảy đàn đất Long Thành ấy không rõ họ tên là gì. Nghe nói thuở nhỏ nàng học đàn Nguyễn trong đội ngũ nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây Sơn kéo ra, các đội nhạc cũ kẻ chết, người bỏ đi, nàng lưu lạc ở chợ, ôm đàn hát rong.Những bài nàng gảy đều là những khúc Cung phụng cho vua nghe, người ngoài không hề được biết, cho nên tài nghệ cuả nàng nổi danh hay nhất một thời.
Hồi còn trẻ, tôi đến kinh đô thăm anh tôi, ở trọ gần hồ Giám, cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con gái đẹp có đến vài chục người. Nàng nổi tiếng nhờ ngón đàn Nguyễn. Nàng hát cũng hay và khéo khôi hài, mọi người say mê, đua nhau ban thưởng, tiền thưởng nhiều vô kể... Sau đó vài năm tôi rời về Nam, mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay tôi phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Long Thành, các bạn mở tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ, có gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt, biết tên, chị em thay nhau múa hát. Rồi nghe một khúc đàn Nguyễn trong trẻo nổi lên, khác hẳn những khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nhìn người gảy đàn thì thấy một chị gầy gò, vẻ t
iều tuỵ, sắc mặt đen sạm, xấu như quỷ, áo quần mặc toàn vải thô bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi im ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dáng thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như đã quen biết, nên động lòng thương. Tiệc xong, hỏi ra thì chính người đàn bà trước kia đã gặp.
Than ôi, người ấy sao đến nỗi thế? Tôi bồi hồi không yên, ngửng lên, cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa nay. Người ta trong cõi trăm năm, những sự vinh nhục, buồn vui thật không lường được. Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương vô hạn, nên tôi làm bài thơ sau, để ghi mối cẩm hứng".

 

 

 

Bài ca người gảy đàn đất Long Thành

Tên người đẹp, chẳng ai hay
Giỏi đàn, dân cứ gọi ngay cô Cầm
Trong triều trước, học nhiều năm
Khúc đàn Cung phụng tiếng tăm nhất đời
Ta từng gặp, thuở thiếu thời
Đêm bên hồ Giám tiệc vui, tình cờ
Tuổi đôi mươi, vẻ ngây thơ
Áo tươi màu đỏ, mặt phô sắc đào
Chơi đàn duyên dáng làm sao
Bàn tay uyển chuyển phả vào năm cung
Tiếng khoan gió thoảng rừng thông
Trong như tiếng hạc tầng không vọng về

Mạnh như sét đánh tan bia
Buồn như Trang Tích não nề ngâm nga
Nhạc trong đại điện Trung Hoà
Người nghe ngồi chật, thẫn thờ, mê man
Say sưa quan lính Tây Sơn
Chơi sang đêm ấy còn hơn vương hầu
Bọn Ngũ Lăng thấm vào đâu
Coi thường tiền bạc thi nhau thưởng tràn
Ngỡ như báu vật Tràng An
Trăm xuân đúc lại một nàng mà thôi.
Chuyện qua hai chục năm trời
Tây Sơn bại trận, ta thời vào nam
Long Thành không dịp ghé thăm
Nói gì cô gái ca cầm ngày xa
Lần này Tuyên phủ vì ta
Mở bày tiệc tiễn, kỹ ca được mời

Đều là gái trẻ xinh tươi
Chỉ riếng cuối chiếu một người hoa râm
Nước da vàng vọt thất thần
Mặt mày phờ phạc không lần điểm tô
Nhìn người ấy, có ai ngờ
Giỏi đàn bậc nhất kinh đô một thời.
Khúc xưa từng tiếng bồi hồi
Ta nghe tê tái, lệ rơi đáy lòng
Chuyện xưa, hai chục năm ròng
Người đêm hồ Giám tiệc tùng là đây?
Thời gian: thành chuyển, người thay
Nương dâu, bãi bể ai hay sự đời
Tây Sơn cơ nghiệp tan rồi
Chỉ còn sót lại một người kỹ ca
Trăm năm thấm thoắt trôi qua
Thương tâm chuyện cũ lệ nhoà áo khăn

Đầu ta bạc trắng ai bàn
Trách gì người đẹp dung nhan héo sầu
Mở trừng đôi mắt nhìn lâu
Gặp nhau chẳng nhận được nhau, thật buồn!

Như chúng ta đã biết, Nguyễn Du tuy quê ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh nhưng ông sinh ra ở phường Bích Câu và lớn lên ở đất Thăng Long. Thân sinh của ông là Tả Thị lang bộ Hình, rồi quan Tư đồ và sau cùng là Tể tướng Nghiễm Nghiễm. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, quê ở Bắc Ninh. Năm 1757, triều đình điều Nguyễn Nghiễm về Thăng Long, và chính Thăng Long tạo nên mối lương duyên giữa Tả thị lang tuổi đã suýt soát năm mươi với cô gái Trần Thị Tần xuân xanh chưa đầy hai chục. Nghĩa là, nếu như không có Thăng Long thì không có mối lương duyên đó và Nguyễn Du sẽ không ra đời.
Chỉ vài lần về quê ngắn ngủi, nói chung, Nguyễn Du sống thời tuổi trẻ ở Thăng Long, cho đến năm 1786, ông rời Thăng Long về quê vợ ở Thái Bình cũng là năm Nguyễn Huệ kéo quân ra Thăng Long lần thứ nhất. Từ đó Nguyễn Du rất ít có dịp trở lại Thăng Long. Nếu như bài ghi chép “Một mối tình hận của tôi” nói về mối tình đầu và những câu lục bát đầu tiên của Nguyễn Du thời đi học ở Thăng Long, thì bài “Long Thành cầm giả ca” chứa đựng nhiều lượng thông tin nhất về mối liên hệ của Nguyễn Du với Thăng Long sau năm 1786. Theo lời Tiểu dẫn cũng như nội dung bài thơ, ta biết được rằng, khoảng năm 1793, từ quê vợ Thái Bình, Nguyễn Du lên Thăng Long thăm anh trai là Nguyễn Nễ trước làm quan trong triều Lê, nay giúp Tây Sơn. Nguyễn Du trọ gần hồ Giám, có chứng kiến cuộc “chơi sang” của quan lính Tây Sơn, xem tiền bạc như bùn đất trong một đêm xem đàn hát. Trong lời tiểu dẫn có một câu: “ Lúc đó tôi nấp trong bóng tối, không thấy rõ lắm”. Là em một ông quan triều Tây Sơn đi xem hát do quân Tây Sơn tổ chức, tại sao Nguyễn Du lại phải nấp trong bóng tổi? Là vì Nguyễn Du không muốn ai nhận ra mình, một người không chấp nhận sự đổi thay của Thăng Long do quân Tây Sơn mang lại. Nguyễn Du dùng hình tượng người gảy đàn ở Long Thành, không chỉ nói về số phận của một người ca kỹ, mà muốn nói sự đổi thay của thời thế, đổi thay của Thăng Long qua các thời kỳ nhà Lê, Tây Sơn rồi nhà Nguyễn với nỗi tiếc nuối, giống như nội dung hai câu Kiều ông từng viết: “ Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.Trong lời Tiểu dẫn, Nguyễn Du còn viết: “ Sau đó vài năm, tôi dời vào Nam và từ đó không trở lại Thăng Long nữa”. Ta biết rằng năm 1796, một năm sau khi vợ mất, Nguyễn Du đã đưa con trai tên là Nguyễn Tứ, khi đó mới vài tuổi về Nghi Xuân. Hai chữ “ vào Nam” Nguyễn Du dùng là kể cả thời gian ông sống dưới chân núi Hồng Lĩnh cũng như thời gian làm quan dưới triều Gia Long mà ông ở Phú Xuân hoặc Quảng Bình. Như vậy là đến 20 năm Nguyễn Du không trở lại Thăng Long, kể từ năm 1793 đến năm 1813.
Đối với Nguyễn Du, “con người thi nhân” lấn át một cách triệt để “con người quan chức”. Trong 14 tháng ròng với cương vị Chánh sứ đi sứ Trung Quốc từ tháng hai năm 1813 đến tháng tư năm 1814, ông đã sáng tác tập thơ “ Bắc hành tạp lục” gồm 132 bài, không có một bài nảo kể chuyện thù tạc với cương vị chánh sứ, mà chỉ nói về cảm hứng của ông khi đến những vùng đất, con người ông từ gặp trong sách vở, và đặc biệt nói về nỗi khổ của những kiếp người. Trong bối cảnh bài thơ “ Long thành cầm giả ca” cũng vậy, đó là hôm Tuyên phủ thành Thăng Long mở tiệc tiễn ông đi sứ, thế mà thơ ông không hề nói về chuyện đó, lại chỉ nói về thân phận một người đàn bà gảy đàn với nỗi cảm thương vô hạn. Nói rằng Nguyễn Du “đứng về phe nước mắt” trong sáng tác thi ca cũng không nhầm.
Trong dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, nhà xuất bản Hà Nội có ấn hành tuyển tập gồm những bài thơ hay viết về Thăng Long- Hà Nội từ thời nhà Lý. “Long thành cầm giả ca” cùng với hai bài thơ khác có chung đầu đề “Thăng Long” tạo nên chùm thơ hay nhất viết về đề tài này trong một ngàn năm qua.

Nhà thơ Vương Trọng dịch thơ và giới thiệu.


  Các Tin khác
  + VẰNG VẶC CHỮ TÂM (Thơ BÙI NGỌC BÍCH) (19/02/2024)
  + ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY Thơ Trần Huy Liệu Lời bình Bùi Ngọc Bích (19/02/2024)
  + GIÓ MÙA (02/11/2023)
  + TẢN MẠN CUỐI THU (02/11/2023)
  + Truyện ngắn. MỘT KIẾP NGƯỜI. (02/11/2023)
  + DỊU DÀNG MÙA THU (04/09/2023)
  + Thơ Nguyễn Hữu Quý - ĐÃ TỚI MÙA ĐÔNG (11/11/2022)
  + Thơ Nguyễn Thánh Ngã - VỀ MIỀN NAM (*) (10/11/2022)
  + Thơ Thái Thăng Long - MÙA HEO MAY! (04/11/2022)
  + Thơ Nguyễn Hữu Quý - RÉT ĐẦU ĐÔNG (03/11/2022)
  + Điều ước ở ngã ba Cây cốc (23/10/2022)
  + Thơ Thái Thăng Long - TƯƠNG LAI VÀ HOA...! (22/10/2022)
  + THƯƠNG MÙI KHÓI BẾP CHIỀU MƯA (21/10/2022)
  + Thơ Nguyễn Hữu Quý - MỀM MẠI, ẤM NỒNG (20/10/2022)
  + GIÓ LẠNH ĐẦU MÙA (18/10/2022)
  + Thơ Thái Thăng Long - DÒNG SÔNG THÁNG MƯỜI (17/10/2022)
  + Cô con dâu hiếu thảo (14/10/2022)
  + Vụ án bữa cơm cuối cùng (14/10/2022)
  + Tiếng hú dưới vực sâu (09/10/2022)
  + Mùa hoa pa bát (09/10/2022)
Playlist

GIỚI THIỆU
 

Kính thưa quý độc giả 

Website nguoixunghekiev.vn

hoạt động chính thức từ tháng

10/2012. và  phi lợi nhuận.

Trang tin đăng tải tin tức 

của cộng đồng người Việt tại Kiev

và toàn Ucraina, đồng thời lấy tin 

từ các trang báo mạng khác trên

nguyên tắc trích dẫn nguyên bản 

đường nguồn chính. Là những

người làm báo không chuyên nên

chắc chắn sẽ gặp sai sót không

mong muốn, chúng tôi sẽ tiếp thu 

chân thành những góp ý xây dựng 

của quý độc giả để cho trang tin 

ngày càng hoàn thiện hơn, xin gửi

về mục liên hệ trên mặt báo hoặc

Email: hosytruc@gmail.com

ĐT: 093-712-24-57

093-973-97-39

Xin trân trọng cảm ơn.

Biên tập: Hồ Sỹ Trúc

 

 

 
 
 

 

 


QUẢNG CÁO
Thống kê
Guests online: 2
Total: 60402549

 
 
 
Người xứ nghệ Kiev
Designed by July