Nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng - Quê quán: Hà Tĩnh. TS Ngữ Văn. CBGD Khoa Văn trường ĐHTH Hà Nội. Nghề nghiệp: Dạy học. Hiện sống và làm việc tại Matxcơva – Liên bang Nga. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Ông đã ủng hộ báo Nguoixunghekiev.vn rất nhiệt thành và vô tư từ khi tờ báo ra đời. Thay mặt BBT, chúng tôi vô cùng cám ơn nhà thơ và xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả tập thơ VẪN CÒN CÓ BAO ĐIỀU TỐT ĐẸP!
"... Thế hệ chúng tôi có rất nhiều người may mắn và thành đạt.
Nhưng trong danh sách đó, không có tên tôi.
Tôi đeo đẳng với văn nghiệp, chung thân dấn bước trên con đường
đầy bất trắc, nhận về mình không biết bao nhiêu là gian truân và khổ nạn.
Nhiều lúc đứng bên bờ tuyệt vọng, tôi nghĩ rằng, số phận chắc đã được
lập trình từ kiếp trước và không có cách lựa chọn nào khác,
là suốt đời phải đi theo hành lang mệnh số định sẵn,
mang trên vai mình cây thánh giá thi ca..."
Nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng - Ảnh nguồn Internet
VẪN CÒN CÓ BAO ĐIỀU TỐT ĐẸP
Thơ
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
HÀ NỘI 2008
THAY LỜI NÓI ĐẦU
TỰ BẠCH
Thế hệ chúng tôi có rất nhiều người may mắn và thành đạt. Nhưng trong danh sách đó, không có tên tôi.
Tôi đeo đẳng với văn nghiệp, chung thân dấn bước trên con đường đầy bất trắc, nhận về mình không biết bao nhiêu là gian truân và khổ nạn.
Nhiều lúc đứng bên bờ tuyệt vọng, tôi nghĩ rằng, số phận chắc đã được lập trình từ kiếp trước và không có cách lựa chọn nào khác, là suốt đời phải đi theo hành lang mệnh số định sẵn, mang trên vai mình cây thánh giá thi ca.
Tôi chấp nhận và cố gắng thích nghi với cuộc sống khó khăn nhiều mặt ở chốn đất khách, quê người và coi đó như một sự thử thách và trải nghiệm.
Tôi cũng như những nhà thơ cùng thời, sáng tác trong một giai đoạn thi ca đã đi qua biên độ của đỉnh cao hình sin hưng thịnh. Văn hóa đọc đang bị xâm thực bởi các loại hình giải trí dễ dãi, bởi các thứ ngụy nghệ thuật và chính bởi cả thi phú rẻ tiền, phản nghệ thuật nữa.
Việc nhiều người vì sớm mong muốn trở thành thi sĩ; nhiều người làm thơ mong sớm thành danh, sang chế ra những tác phẩm lập dị, núp sau khẩu hiệu cách tân, thực chất là che đậy sự bất lực trong sáng tạo và bế tắc về sự thể hiện. Nó càng làm cho công chúng quay lưng, dị ứng với thơ.
Đã có những điều tra xã hội về chỉ số của các độc giả văn học hiện thời. Có cảm tưởng đại bộ phận độc giả của chúng ta thiên về những sản phẩm sơ chế, dung ngay, không tinh luyện, ít huy động đến tư duy. Còn những tác phẩm tinh túy, cao vọng thì số độc giả khiêm tốn của nó tập trung ở những người có khả năng cảm thụ, thẩm định và có học vấn. Họ là những tín đồ chân chính và đáng trân trọng của văn miếu thi ca.
Lịch sử văn học nhân loại đã chứng minh rằng, những tác phẩm có nội dung tiến bộ, có giá trị nhân đạo cao cả; càng trong sáng, càng giản dị, càng kinh điển thì nó sẽ bất tử và có ý nghĩa to lớn đối với con người; còn những tác phẩm cố làm ra vẻ quái gở hoặc tô phấn, trát son cho những gì đang bị đào thải thì sẽ ngaylập tức bị đào thải. Khi thơ ca rơi vào sự a dua, nô lệ, minh họa cho một khẩu hiệu nào đó thì nó sẽ nhanh chóng rơi vào điểm chết.
Hơn bao giờ hết, trong một thế giới đầy“ nhiễu nhương và thiếu bình yên” như A.I.Xolzhenitsyn nói, thì thơ có sứ mệnh phải đem đến cho công chúng một cách nhìn, một dự cảm mới, huớng thiện và hướng đạo. Nói cách khác, chức phận của thơ là phải giáo hóa tâm hồn với lý tưởng chân, thiện, mỹ.
Nhà thơ bao giờ cũng là một nhà văn hóa, phải “hành quá vạn lý lộ, độc phá vạn quyển thư”, phải nghiêng mình xuống những số phận thiệt thòi, phải mang lại cho nhân quần một sự sẻ chia, một niềm an ủi.
Nhà thơ phải có lý tưởng phụng sự dân tộc mình, bảo vệ và tôn vinh những giá trị lịch sử và văn hiến. Nhà thơ phải dũng cảm viết theo tiếng gọi của lòng mình, vượt qua sự can thiệp ngoại lai và sự trục lợi.
Sẽ là thiệt thòi biết bao cho những người không đủ trí lực và tình yêu để đến được với thánh địa của thi ca. Và sẽ là đáng thương biết bao cho những người dám đem sự hiểu biết hạn hẹpvà tư cách thấp hèn của mình để phủ nhận và xúc phạm thi ca đích thực.
Tôi viết các tác phẩm của mình với những quan niệm bình dị đó. Thơ của tôi buồn và thiếu những tiếng vỗ tay, những nụ cười viên mãn, những hình tượng khả kính, thứ mà các độc giả vẫn bắt gặp trong sáng tác của những thi sĩ thức thời. Tôi không thể nào viết khác được vì bút pháp tụng ca (ode) không phù hợp với cảm hứng chủ đạo của thơ tôi. V.G. Belinxki, nhà phê bình Nga lỗi lạc giữa thế kỷ XIX có viết rằng, “đối với liều thuốc tâm hồn, những nỗi buồn nhân bản bao giờ cũng có tác dụng thẩm thấu hơn nhiều so với những hội chứng phấn khích”. Tôi không hề hoài nghi luận điểm này!
Vào một thời điểm nào đó, ở một nơi nào đó, cái ác, sự dối trá, thói đạo đức giả hãy còn đắc thắng; sự lố bịchvẫn còn ngự trị, nhưng xin đừng vì thế mà đánh mất niềm tin. Giữa cuộc đời này vẫn còn có bao điều tốt đẹp!
Tôi không có ước vọng gì hơn ngoài việc thơ của mình đến được với bạn đọc, được trang trải nỗi lòng mình với công chúng độc giả, mặc dù tôi sống cách xa ngoài vạn dặm.
Tác giả
BÁI VỌNG
Xứ người, ngày rằm, mồng một
Kim ngân, rượu trắng, hoa vàng
Lòng thành tổ tiên, chứng giám
Bàn thờ nghi ngút khói nhang
Quê hương xa ngoài ngàn dặm
Từ đường, đình cổ rêu phong
Tiền nhân cỏ trùm bia mộ
Đêm đêm canh cánh tấc lòng
Nửa kiếp bôn ba, lưu lạc
Trời còn để được hôm nay
Bao phen mất, còn gang tấc
Ngẫm ra, hẳn có phúc dày!
Giữa chốn rủi ro, cạm bẫy
Đồng sâu, thân vạc, thân cò
Thuần phong, thế thời khác biệt
Nhân tình, sớm nắng, chiều mưa
Mãn kiếp gối mòn kinh sử
Hỏi ra, chẳng có ai cần
Lạc vào văn chương, thơ phú
Là sa vào lối nợ nần!
Gõ ba tiếng chuông đồng vọng
Quê nhà cứ ngỡ kề bên
Chắp tay, khấu đầu khấn vái
Xin cho hai chữ: bình yên!
Theo Hà Thị Trực
|