| 
                       
                       
								
                                  
                              	     
 Ngày xửa ngày xưa, ở làng nọ có một người đàn ông bị trời bắt làm câm  nhưng không cho làm điếc… Dáng người vạm vỡ, đôi mắt tinh anh, tấm lòng  đôn hậu. Cọt là tên hiệu, Sỹ Trinh tên húy, cha mẹ mất sớm, chú ở với vợ  chồng người anh trong cái chái bếp lợp rạ, dưới gốc cây ổi cạnh giếng  Bờ Re… Sau những buổi đào gốc, đốn củi giúp đỡ mọi người… Những đêm hè  trăng thanh gió mát, chú ngồi trên chõng tre, dưới ánh trăng đang ưỡn ẹo  đang mơn trớn trên mấy tàu lá chuối… Nhìn ra, thấy các cô thôn nữ tắm  tiên, ghẹo nhau cười chí chóe… Bóng người gần xa, khi tỏ khi mờ… Lòng dạ  chú nôn nao, nỗi cô đơn tràn ngập. Chú thở dài não nề buồn cho kiếp  người, tạo hóa  bất công... Ngày xửa ngày xưa… chưa lâu lắm đâu… Ai muốn  nghe thì nghe, ai không nghe thì thôi…  Thì tôi không  kể nữa. 
             Trưa, trời nắng như đổ lửa, một, hai, ba, bốn chiếc xe cải  tiến chở vôi từ Quỳnh Hậu về. Mấy người đang trút xuống vũng của nhà cu  Tư. Khói bốc lên nghi ngút… Miếng ván bắc qua bám đầy bùn, nghiêng bên  nọ lật bên kia. Chú Cọt cầm cái cào quai đứng chênh vênh ở giữa, vôi  dưới vũng sôi lên sùng sục. Bọn trẻ con xung quanh reo hò, thỉnh thoảng  lại lấy trộm một cục ném xuống, cho nó xì khói. Bóng chú  khi mờ khi tỏ  dưới làn hơi vôi, vẫn giáng từng nhát. Bỗng… rắc một cái, miếng ván chùn  xuống gãy cái.. rầm! Cả người chú và cái cào quai rơi tõm xuống, như  con tôm bị ném vào nồi nước sôi… Ua làng ơi….! Ua làng ơi…! Anh mô anh  nấy đứng trên bờ mặt mày tái dại, bọn trẻ khiếp đen im bặt. Chú quằn  quại, kêu la vùng vẫy. Đám người đứng xung quanh hốt hoảng chưa biết làm  gì, thì chú đã búng người nhảy ra khỏi vũng vôi lăn sang vạt ruộng.  Trời ơi !… nóng… nóng..! Đám trẻ kêu lên. Chú trằn bên này, vật bên kia  như con trâu đằm, da thịt chú bốc khói. 
Bọn trẻ xóm Chợ  lớn lên đã thấy chú Cọt lừng lửng xách dao nhọn, khi thì cầm cái sào  treo mấy cái bong bóng trâu đi qua nhà.  
Mỗi khi có đứa nào khóc, mẹ lại dọa… Nín đi, không chú Cọt bắt tề… là im thin thít.   
            Câm bẩm sinh, chàng Thạch Sanh trong đời thực ngày ngày khoác  áo lên vai, vác xẻng, vác dao đi giúp đỡ mọi người. Chú làm việc vì mọi  người nhiều hơn chàng Thạch Sanh.  Chú Cọt ơi! sao chú chẳng chém trăn  tinh để lấy công chúa Quỳnh Nga mà làm phò mã, mà chú chỉ chém lợn, đâm  trâu. Cung mệnh của chú chắc được ông trời đặt vào chùm sao xấu. Nếu  không chàng Thạch Sanh trong cổ tích làm sao sánh nổi. Nhưng chú có phần  may mắn hơn, xóm Chợ nhà chú, không có bóng ma lởn vởn của người anh em  kết nghĩa Lý Thông... Xóm chợ vẫn thế, láu cá, khôi hài và đầy nghĩa  khí. Khi cần có thể “Đá sắn Động Chền, lăn dưa hợp tác , nấu rượu lậu  làm bún gian”, nhưng sống thật có tình. 
Một thằng nhóc  con chơi thân với chú, đến bây giờ hắn vẫn không lý giải được tại sao  lại có một tình bạn kỳ lạ đến thế, giữa một đứa trẻ và một người câm lớn  tuổi. Một tình bạn đầy mâu thuẫn nhưng cũng thật nhiều thi vị. 
            Năm nào cũng thế, cứ tờ mờ sáng, ngày 29 tết, tiếng lợn kêu  trâu ọ, tiếng chảo khua, tiếng người la hét từ hướng sân đội, hòa vào  những bài hát mùa Xuân đang phát qua loa kim. Ôi! Buổi sáng thật rộn  ràng, âm thanh giai điệu quyện vào nhau, háo hức thúc giục, nó làm cho  trẻ thơ nhảy chân sáo, người già mỉm cười rít thuốc lào khoan khoái  trong tiết trời se lạnh…Các bà các mẹ phấn khởi nôn nao chuẩn bị bếp  núc. Giai điệu của no ấm của mùa Xuân đang về. Bọn trẻ hết chạy chỗ nọ  xem đâm tiết lại quay về nơi cạo lông mổ bụng, đứa nào đứa nấy nhảy như  choi choi. Sướng nhất lúc chú Cọt vung tay dùng búa tạ như Triệu Tử Long  vung đao đập vào đầu trâu. Con trâu già nua quằn quại, trông nó ang ác  thế nào ấy nhưng vẫn là cảm giác mạnh của sự tỷ thí chém giết, chết  chóc. Mấy ông làm thịt cãi nhau, phùng mang trợn mắt như sắp đập chắc  đến nơi. Sân đội ồn ào nhốn nháo như vỡ chợ, bọn con nít xóm hắn hò reo  inh ỏi, chỉ thích những trò mạo hiểm.          
Gần trưa,  chúng túm bu xung quanh các phản thịt lót lá chuối, những con lợn nằm  phanh thây trên đấy. Đứa nào đứa nấy lăm lăm giật cái bong bóng lợn, để  về vò với tro bếp thổi lên làm quả ban. Chú mằn tay một lúc, túm lấy  cuống cắt xoẹt một cái, đảo mắt một vòng. Cả bầy con nít giơ tay nhao  nhao. Nhìn thấy hắn… E!... Hắn cầm lấy chạy một mạch về nhà, mấy đứa  khác chạy theo kêu la thích thú. 
Mấy người làm lòng ở ao  chùa, cái thứ cao lương mỹ vị này. Khi đưa ra khỏi sân kho phải có lực  lượng tinh nhuệ canh gác cẩn mật như bảo vệ thùng phiếu bầu cử Tổng  thống bên Mỹ, mà giờ vẫn thấy trên ti vi. Thế mà chú với mấy bác đồ tể  làng nhanh tay lẹ mắt, thần thông hô biến. Khi thì đống rơm có bộ phận  tiêu hóa của lợn, bụi lau cù được ghép gan trâu. Nên thực ra cái anh  khoa học thường thức trong sách giáo khoa cô giáo đã dạy cho bọn trẻ… sai  bét. Nói, phải có một quả gan nguyên lành, một bộ tiêu hóa hoàn chỉnh  thì động vật mới sống. Thực ra chỉ cần hai phần ba quả gan, tám mươi  phần trăm bộ tiêu hóa là chúng đã sống nhăn rồi. 
            Tối  đến khi thấy binh tình yên ắng, người qua lại thưa thớt, ngó thấy ông  chắt Lo choàng cái áo bạt, xách cái đèn bão, e hèm đánh tiếng đi qua,  chú vẫy tay vời hắn, cười cười… Cha mi chập mặt... Kéo hắn đi về phía  bụi lau cù cạnh ao chùa gần nhà cụ Mão. Đã chuẩn bị sẵn một cái chậu  thau. Tất cả được dồn vào đấy, theo hướng giếng Bờ Re. Chú cháu hắn như  những con mèo hoang biến vào màn đêm, nhảy về cái chái bếp lợp rạ trét  đất xiêu xiêu (gia tài của mẹ để lại cho anh). Đây là vương quốc của  chú.  Bạn đã nghe người câm hát và thổi sáo bao giờ chưa. Chú huýt sáo e  e e, vừa hát, như lời bài hát nổi lửa lên em. Giai điệu thật tự hào,  tươi sáng thiết tha. Trong ánh lửa chú thật oai phong, gương mặt cương  nghị có chút ranh mãnh ngời lên hồng hào, khí phách đến lạ. Kéo phên rạ  cùn che cửa lại, lòng trong niêu đất đã chín, khói bốc lên, mùi thơm  nồng nàn, hay nói đúng hơn vẫn còn tý hương… c…ứ…t, thoang thoảng (mà  Nòng nợn phải thế, phải có cái mùi quốc hồn quốc túy, bản sắc văn hóa ẩm  thực dân tộc này, thì nó mới ngon, mới bổ lắm thay). Chú cắt một phần   treo lên gác bếp, phần còn lại hai chú cháu dùng tay chấm ruốc hôi tọng  vào mồm ngấu nghiến. 
Cũng chẳng có ai tranh giành gì  với chú, vậy nên chú là người tự cho mình cái đặc quyền. Một trăm phần  trăm bong bóng trâu, sau mỗi lần làm thịt lễ tết là của chú. Nó phải  thuộc về chú. Cái thời rượu là hàng quốc cấm nên rượu lậu phải được đựng  trong những chiếc can đặc biệt, phải thích ứng như làm ảo thuật, khắc  xuất khắc nhập (gấp lại bằng bàn tay, xòe ra đổ vào phải được bốn năm  lít rượu). Mà rượu bỏ trong bong bóng trâu nó có vị ngon mơ màng, tạo  cho người uống rơi vào trạng thái ngọt ngào đê mê. Trước mắt như hiện ra  ra… đoàn người lầm lũi đi qua sa mạc, nóng bỏng sắp chết khát, gặp được  dòng nước mát. Mấy mẹ Hạ Lăng, Cầm Trường, Thanh Dạ rất khoái loại này  nên hàng của chú, thường là bán rất chạy. Thương hiệu độc quyền... Văn  Cọt!  
               Sáng nay, chú đào ao cho bác Vũ là người có  chức sắc trong làng, chú làm quần quật… Mồ hôi mồ kê như tắm. Một mình  chú làm bằng ba bốn thằng thanh niên sưa sườn. Cái ao nhà bác Vũ mới đào  một ngày mà đã lút đầu con nít. Chiều tối khi đã cơm no rượu say, chú  lại chập chù chập đi về phía nhà hắn. Nằm gác chân lên cửa sổ để hưởng  gió nồm, ra hiệu như kể về chiến tranh, về tình yêu bằng tiếng e e e và  ngôn ngữ tay chân. Thỉnh thoảng hứng lên lại  Chập chù chập… chập chù  chập… chù chù chù chập chập, rồi o e như khóc lóc thảm thiết. Chắc chú  khóc cho sự cô đơn, bế tắc buồn tẻ, thân phận kiếp người. Một lúc lại ra  hiệu, chỉ trỏ bốc không khí cho vào mồm. Chú chê, nhà nó cho ăn không  ngon bằng nhà mày, lại nghiến răng đưa nắm đấm lên quai hàm… như muốn  nói từ nay đếch làm cho nhà nó nữa. Ú ớ một lúc đã ngáy khò khò. 
Chú làm không từ việc gì, đào huyệt, bốc mả sang tiểu, quấn  chiếu chôn cất những hài nhi xấu số… Ai trong xóm ốm đau, đẻ đái trong  cơn thập tử nhất sinh, cho lên võng đưa đi nhà thương thì bao giờ đầu  bên kia cánh võng cũng là chú. Làm nhà, đào đất cất gỗ, đóng sò, đào  giếng, vác đá, tôi vôi… việc gì nặng việc gì khó có tay chú. Không tính  toán hơn thiệt, không lấy tiền công bao giờ, chỉ cần ngày ba bữa no say.  Buổi sáng có chục bánh mướt bà Cường hoặc Hoe Lập nữa thì còn gì để  nói.  
         Trưa chú nằm ngủ trên chõng, hắn và mấy thằng lấy  ruốc quệt vào trong lỗ mũi, rồi lấy đọt lá tre  đưa qua đưa lại trên mặt  chú, tưởng ruồi bu, tát cái bẹt! nổ đóm đóm mắt. Thức dậy cứ đi đi lại  lại, có ý tìm kiếm xem hũ ruốc con nhà ai vương vãi… Thấy mấy thằng mất  dạy cười lăn cười lộn, chú đưa tay lên mũi, nghiến răng… Cha mi chập  mặt. Tiện tay cầm cái điếu, rượt bọn hắn chạy khắp nhà. 
Xóm Chợ rộ lên phong trào đi buôn rau muống lên Nghĩa Đàn. Chú cũng  hăng hái tham gia. Rau muống gánh lên, mít, sắn gánh về, ra chợ ngồi  chạng háng bán, lời lắm. Thỉnh thoảng đi qua lại ném cho hắn mấy múi  mít, ngày đó hiếm, chén luôn cả xơ, hột thì cho vào bếp nướng, bùi đáo  để. Nghỉ Hè, hắn xin đi cùng thì đừng hòng. Lạ thật, hình như chú thấm  nhuần câu thành ngữ  “Thà cho vàng chứ không chỉ đàng đi buôn”. Hắn còn  nhỏ biết buôn bán gì, nhưng chưa biết Nghĩa Đàn xin đi theo, thế mà  không cho là không cho. 
             Một bữa, xã Sơn Hải mời xã  Quỳnh Đôi giao hữu bóng đá, mà Sơn Hải đá hay đập chắc lắm, dân làng  Quỳnh  hiền, ít khi gây sự trên sân. Không biết sao, lần đó họ mời xuống  trước một ngày để giao lưu chiêu đãi trọng thể. Rủ mấy thằng bạn, không  thằng nào chịu bỏ học. Chán đời, hắn mò xuống nhà chú. O e một hồi chú  cũng hiểu ra. Cũng là dân ham bóng với nhau nên gật đầu  e e lia lịa.  Sáng sớm hắn đến nhà chú. Chú lôi trong bọc ni lông ở đầu chõng ra một  bộ quần áo bà ba màu tím mới nhuộm ngoài chợ (khi mặc vào, mồ hôi ra  thuốc nhuộm bám tím người). Lấy lược chải tóc cẩn thận, đội nón lên. Hai  chú cháu tắt qua Thượng Yên, Hạ Lăng, Quỳnh Ngọc. Xuống đến chợ Ngò  cũng vừa tới giờ trưa, bụng đã đói cồn cào. Chợ Ngò họp bên sông gần cái  cầu gì đó. Lần đầu được vào chợ Ngò có cảm giác nó hơn hẳn chợ Nồi về  hàng hóa và các món bánh. Theo chú vào đến hàng bánh, không biết là bánh  gì nhưng chính xác là hắn thấy có cả tôm và giá, bọc lại sau đó mới cho  vào chảo rán. Thấy chú mua hai cái, chắc mẩm kiểu gì mình chả có một  cái. Chờ mãi, chú ăn hết cái thứ nhất rồi đến cái thứ hai… những cọng  giá và nửa con tôm béo, ngậy thơm lừng từ từ biến mất sau hai hàm răng  sắc nhọn của chú. Hắn đứng ngây người không hiểu điều gì đang xẩy ra,  lủm bủm chửi thầm: Đồ tham! Có những điều tưởng như cao siêu triết lý  mới giải thích được, nhưng lại vô cùng đơn giản. Khi lớn lên hắn mới  hiểu, trạng thái tâm lý của hoàn cảnh đó. Tính Phật của chú đã bị tính  người che mất, thời điểm đó dây thần kinh thảo ăn của chú bị mo ve mất  điện. Hay, chú đã cố tình dạy cho hắn bài học về sự sòng phẳng. Để sau  này lớn lên trên đường đời, hắn ý thức được điều đó mà áp dụng. Hãy biết  im lặng, câm mồm trước những gì không phải của mình, không thuộc về  mình… Ngu ạ, Con người ta ai chả có những lúc tham ăn tục uống, thần  kinh chập mạch.  
               Chú ăn xong lấy tay quẹt ngang  mồm, đá nhẹ vào chân hắn, ra hiệu… Đi! Lượn mãi, gặp ai cũng khua chân  làm hiệu. Cuối cùng cũng đến được sân vận động. Từ xa đã thấy câu khẩu  hiệu to đùng: “SƠN HẢI, QUỲNH ĐÔI - ĐOÀN KẾT, ĐOÀN KẾT, ĐẠI ĐOÀN KẾT”.  Hắn nhỏ nhưng đoán được xã này đá ban hay nóng nảy, đụng tý là… “Đập  chiết cha hắn đi”, vác cả dao rượt cầu thủ, nên mấy xã khác có mời, có  rải thảm cũng không dám đến. Chỉ có Quỳnh Đôi là dẹ tính, tinh thần thể  thao cao thượng nên mới nhận lời. Câu khẩu hiệu phấp phới giữa hai cái  sào như nhắc nhở như răn đe, nhìn mà xúc động. 
Thấy có  khán giả đặc biệt một nhỏ mặc quần thủng đít, tóc quăn tít đỏ quạch, một  câm áo bà ba tím đến… Oa trời! (như bọn trẻ bây giờ hay nói… Phen cuồng  xuất hiện). Chú cháu vô ăn đi! vô ăn đi!  (bố hắn gần như là trưởng  đoàn nên con cái được ưu tiên là cái chắc, cụ thể trong trường hợp này  rõ chú là dân ăn theo). Làm bữa cơm đoàn kết với các quan chức và cầu  thủ thân quen hai bên. Trên mâm đầy cá thu, thịt lợn. Ai cũng gắp cho  hai vị khách quý, chú cũng hưởng xái một bữa no nê. Đảo mắt lườm, nghĩ  đến cái bánh, hắn lại ấm ức, không muốn theo chú nữa. 
            Chiều, khán giả làng Quỳnh xuống bằng xe đạp. Trận đấu bắt đầu, Sơn Hải  giao bóng trước, áp dụng chiến thuật lấy thịt đè người, chủ yếu rót bóng  vào khu vực trung lộ, để xô đẩy tét đầu. Sau một hồi thực hiện chiến  thuật đỉa bám đít tru ruồi bu đuôi ngựa, chạy hùng hục như tru húc mả,  như tranh giải bát cơm quả trứng, đũa dựng có lông. Cu Ngụ hậu vệ thòng  cướp được bóng, chuyền lên cho cu Kỷ. Cu kỷ rê bóng ra biên phải. Bên  kia cục gió cu Tiến đi dày cao cổ, chân vòng kiềng cũng đã di chuyển  không bóng lôi kéo đối phương, ba bốn cái áo vàng vào vàng lao vào. Cu  Kỷ đánh gót lại cho cu Ân. Cách gôn khoảng hai mươi thước, thấy rảnh  chân cu Ân nghiến răng… bằm phát, bay lên trời. Chú đứng dậy như Ro se  mâu ri nhô của Man chết toi, à quên, Man chét tơ u nen tích bây giờ.  Cũng chỉ trỏ khua chân múa tay chỉ đạo át cả tiếng của Cai Đục, Chiên  Nhấn… Quỳnh Đôi được hưởng một quả đá phạt ở khu vực giữa sân, thằng hậu  vệ theo kèm Cu Kỷ bám dai như đỉa, ức chế vì không có bóng… Số 4 của  Sơn Hải di chuyển thụt lùi, ra dáng được đào tạo cơ bản… Cu Kỷ khom lưng  gần sát đất, số 4 lùi nhanh không để ý phía sau va phải cu Kỷ bổ cái  bật ngửa, định nhảy vào xô xát với  đối phương. Khán giả Sơn Hải nhao  nhao: Đập chiết cha hắn đi! Trọng tài và ban tổ chức can ngăn mãi. May  mà thấm nhuần câu khẩu hiệu, hai nữa cầu Quỳnh Đôi cũng hiền lành nên ẩu  đả đã không xẩy ra. Hú hồn! Chập ban đá lại. Quỳnh đôi có hàng tiền vệ   kỹ thuật, ban bật chọc khe nhuần nhuyễn, mở tỷ số dẫn trước hai bàn.  Không chịu thua mất mặt trên sân nhà, Sơn Hải ào lên tấn công với những  đường chuyền xẻ nách, sau đó tạt bỏng vào khu vực cầu môn. Cu Hòa lóng  ngóng đánh đầu phản lưới nhà. Tiếng hô dậy trời của khán giả Sơn Hải.  Cầu thủ Quỳnh Đôi về cuối trận thế lực không còn đảm bảo (chắc là buổi  trưa ăn no lại có chút rượu đỏ). Minh sói số 8 Sơn Hải (sau khoảng ba  mươi năm gặp lại Minh sói tại Tây Nguyên, nhắc trận cầu năm nào, Minh  Sói vẫn không quên vẫn nhớ hai khán giả đặc biệt) - dốc bóng một mạch từ  giữa sân, cu Tiến phi cả hai chân vào cản bóng, nhưng hắn vượt qua, khi  đến sát vòng 16m50, cu Trang hậu vệ biên trái ngáng chân, trọng tài  thổi cái Tét, chỉ tay về phía khung thành Quỳnh Đôi. Hàng rào được giăng  ra. Minh sói lấy đà sút thẳng vào góc cao, ban đi hơi liệng vì gió, cu  Khang nhảy lên đầu ngón tay chạm vào ban  nhưng do cú sút quá mạnh, ban  đập vào xà ngang văng luôn vào gôn… Hòa. Khán giả Sơn Hải nhảy cửng lên,  ném mạo nón lên trời. Khán giả Quỳnh Đôi ngồi im ôm mặt, không hiểu  điều gì đang xẩy ra. Chú Cọt nhảy ra giữa sân chỉ trọng tài, ý nói bắt  thiên vị. Mấy người vội kéo chú ra, chú sùi bọt mép hậm hực. Đối với chú  và hắn lúc đó Làng Quỳnh chỉ thắng, không bao giờ được hòa và thua, một  niềm tin mãnh liệt đầy chất bảo thủ. 
           Trận đấu kết thúc  đầy kịch tính với tỷ số hòa 2-2, Sơn Hải hoan hỉ, người mô cũng chép  miệng: Hay đơ… Hay đơ… Tại thằng số  bảy, gần rứa mà sút không vô, đá  như kẹc… Đá rứa mà cũng đá…Chư không choa thắng rồi... Khán giả Quỳnh  Đôi im lặng rời sân, mau mau về kẻo tối. 
Chiều xuống lại  tắt đồng. Cái trò khi đi thì háo hức khi về thì  uể oải, chú  khỏe đi   nhanh, hắn cứ tụt lại đàng sau, mặt trời  đã lặn. Đi không được nữa vì  mỏi chân, chú quay lại đưa nắm đấm lên quai hàm, ý nói: Cha mi chập mặt.  Hắn đứng ỳ ra. Chú đi một đoạn, thấy hắn vẫn đứng. Cuối cùng chú cũng  phải quay lại cõng hắn lên vai. Về đến gần đến giếng Re thì thả xuống  cái phạch. Hắn chạy một mạch về nhà… buồn như cha chết. 
             Nhà đi mua hàng ở chợ Chiền, nửa đêm đã dậy kéo xe, đường quan khuya  khoắt không một bóng người qua lại. Chú kéo xe, hắn và thằng anh nằm  quấn bì co ro trên thùng, trời tối đen lạnh buốt. Đến đoạn Cung Quỳnh  Văn, nghe cái cộc. Tỉnh dậy thấy chú dừng xe. Trời ơi! Trong bóng đêm mờ  ảo là một xác người hình như bị tai nạn, hai anh em hắn run cầm cập.  Chú bước đến gần, lấy ống bật, bật lên soi khắp nơi, vén cả răng xác  chết… Mãi sau mới biết, chú coi có răng vàng không để bẻ. 
               Chiến tranh ác liệt, miền Nam vẫy gọi, chú cũng được điều đi dân  công hỏa tuyến. Hơn năm gì đó thì hết hạn, về quê nhìn lạ hoắc, oai hẳn.  Tác phong rất chi là huyện đội. Việc đầu tiên của chú là đóng đinh lên  vách treo cái giấy khen to đùng: Đồng chí: Hồ Sỹ Trinh, quê quán…, đã có  thành tích… o e khoe với mọi người. Lấy tay làm hiệu máy bay sà trên  đầu, súng bắn ùng oàng.  
              Mấy ngày sau lại cùng bọn  trẻ đi xuống nhà hoe Thụi để nghe ông Thụi nói tiếng Pháp. Oang xơ mít  công soa, rồi liến thoắng giải thích tại sao Xít tờ ríc nin lại bắt tay  ông Pê lê xi lin sát bờ sông bên lều cỏ, ở nước Phần Lan trong tấm tranh  sơn dầu treo trên tường. Bay biết tại răng không, ông Pê lê xi lin túi  qua cại chắc, tức quá tát ông Xít tờ ríc nin một cái, sáng ni ngủ dậy  sớm, bắt tay xin lỗi. Lại bày cho bọn hắn: Lê siêng là chào ông. Gặp mấy  ông già thằng mô thằng gập người, kính cẩn chào: Lê siêng. 
            Xóm hắn toàn dân đêu đểu, hay khôi hài phét lác. Hết chuyện trên  trời dưới đất, xong thế giới đại chiến. Hồng quân Liên Xô có cả tập đoàn  Xít đờ ca phóng vèo vèo như thế nào. Lại vòng về bún bà Cường sứt, rồi  ai nằm lang với ai, đạp quần xuống ra răng. Làm vè trêu cố Quỵ lòi trê.  Đi mô cũng nghêu ngao: “Cố Quỵ lòi trê quây lại mút, đít đỏ trê ra lấy  áo chùi”.  Đúng là quân mất dạy! - Cố Quỵ vừa chặt tre vừa chửi lẩm bẩm.  Hắn cũng bị nhiễm tính cách đó từ lúc nào không biết. Duy chỉ có chú  Cọt là người không bao giờ nói thành lời mà luôn luôn hành động. Cái  triết lý: “Hạnh phúc là sự thỏa mãn của các lỗ tự nhiên” nếu đúng, thì  chú là người không thực sự hạnh phúc, vì chú có một vài lỗ chưa được  thỏa mãn. Những thằng lắm mồm toàn nói những điều to tát cao siêu thì ít  làm, mà làm cũng chẳng ra cái gì, nhưng lại luôn đứng trên đầu người  khác, suy cho cùng cũng là sự hợp lý. Một quốc gia mà cơ quan ngôn luận  truyền thông yếu kém thì làm sao mà phát triển được. Người ta phải tuyên  truyền tô vẽ, ít thì nói thành nhiều, nhiều nói thành ít, quảng bá hình  ảnh, bày tỏ quan điểm. Thành ra chú, suốt đời trắng tay, trì trệ, cô  đơn. Tạo hóa đã truyền cho chú triết lý sống “Không nói mà làm”, thật  khác người  thay. Trừ những khi tham ăn ra thì hắn chỉ nhìn thấy sự nhân  ái tử tế đến lạ kỳ ở chú. 
          Chuyện vợ con chú cũng hay  lắm. Anh em mai mối cho mấy O dở dở hâm hâm trong làng, chú không chịu,  muốn người đẹp kìa. Kén cá chọn canh, cuối cùng chú vẫn là người đàn ông  sạch, vẫn sống một đời thanh tân không bóng đàn bà. 
Chỗ  hắn, nhiều học giả trí thức, làm to khắp nơi nhưng bọn trẻ con không  biết nhiều. Chỉ quan tâm bu xung quanh chú, tôn thờ là thần tượng về sức  khỏe, về ăn khỏe và sự gánh vác chia sẻ khó khăn hoạn nạn với cộng  đồng, với cái nhóm xã hội nghèo khổ mà hồn nhiên hoang dại.  
Trong khốn khó con người nhiều khi chẳng cần âm thanh, chẳng cần lắm  chuyện, họ xích lại gần nhau bằng cả tấm lòng, như một lẽ tự nhiên.  
Gặp anh nào đi xa về, chú lại đưa hai bàn tay úp vào nhau dập  lên dập xuống, ý muốn hỏi lần ni về có cưới vợ không… Ặc ặc...!. Thì ra,  khi con người thủa hồng hoang ăn lông ở lỗ, chắc ra tín hiệu với nhau  để “Ấy” cũng chỉ đơn gian thế thôi. Thằng Năm cò Yên, không biết chú  đứng đàng sau, nói to với bọn hắn: Chú Cọt không có c…ạ.…c. Chú bước  đến… Cha mi chập mặt… Rồi giơ cổ tay phải lên tay trái nắm lấy xoay  xoay... Xeee..., Cha mi chập mặt. 
 ... 
         Hơn một  tháng sau cái trận bỏng vôi, nghe nói chú còn sống. Cái vũng vôi đã  không giết được chú, chỉ làm cho chú đau đớn tột cùng về thể xác, nhưng  tinh thần càng mạnh mẽ hơn . Trưa, bọn hắn đã tập trung ở nhà chú. Ngồi  đó ánh mắt lờ đờ, cử chỉ của chú yếu đuối chậm chạp. Mùi tanh của da  non, tiếng ruồi bay vo ve trên các vết sẹo loang lỗ. Mọi người đi ra đi  vào. Bà chị dâu hết nói với người này người kia: May rứa đa, may rứa đa…  Thời đại mới, nhiều thuốc, chứ ngày trước thì chết toi rồi. Bà quả  trứng gà, nải chuối, chú bác láng giềng lô nếp làm quà.  Một không khí  thương yêu chia sẻ bao trùm lan tỏa trong căn nhà tranh ọp ẹp. Khoảng  vài tháng gì đó, chú hồi phục, lại phăm phăm trên đường làng hướng về  những nhà mẹ goá con côi… nhà neo người không đủ sức làm việc nặng. Lại  như Triệu Tử Long vung đao trên sân đội khi tiễn trâu bò về chầu trời.  Mà sao việc gì khó người ta cũng dành cho chú, có lẽ vì chú không biết  từ chối, hay chú nghĩ đó là trách nhiệm là sứ mệnh của chú đối với cuộc  đời này. 
           Trời tháng bảy, không biết con kiến nhà ai,  nấu cơm củi lửa không cẩn thận. Đang buổi trưa lửa từ mái nhà tranh của  cu Bi bốc lên rừng rực, những phên rạ cháy cuộn bay lên tả tơi trong  gió. Tiếng kẻng hộ liên: Beng...beng…beng… Tiếng người la hét thất  thanh. Người cầm thùng, kẻ cầm xô chậu, kiếm nước hắt vào té tát. Than  lửa trên mái nhà rơi xuống, gạo thóc quần áo trong nhà đang bén lửa. Chú  ở trần lao vào vác hết cái nọ, khuân hết cái kia đưa ra ngoài. Tàn lửa  rơi trên vai trên đầu chú, mùi tóc cháy khét lẹt. Chú gầm lên o e khua  tay chỉ huy người kia nhanh tay lên, người này lùi lại... 
Lửa tắt, ngôi nhà cũng đã bị bà hỏa làm cho sập xuống, chỉ còn trơ phên  đất lẹo vẹo. Chú đến chỗ vại nước nhà phó Bừa, thò đầu xuống, làm một  hơi rồi lững thững đi về.  
          Bao nhiêu năm sau tình cờ  gặp, chú ôm lấy hắn, rồi đưa tay ra hiệu thấp cao, ý nói mới ngày nào  còn theo chú, mũi thò lò giờ đã lớn khôn. Chỉ vào ngôi nhà cũ, mắt rơm  rớm nước. Nhìn về phương Nam xa xôi. Chú muốn nói rằng: Chúng mày tham  vàng bỏ ngãi, sao nỡ bỏ quê hương mà đi biền biệt, không thấy ai trở về.  Tao buồn lắm.  Hắn thấy mình có lỗi với chú, cả tuổi thơ nghèo khó lam  lũ. Con đường nào heo hút, nắng tháng bảy rám da, những đêm trường giá  lạnh, chú cõng hắn trên vai. Bao nhiêu gian khổ nhọc nhằn, bom đạn chết  chóc. Giáp hạt mất mùa, ngày ba tháng tám, đói cơm nhạt muối của gia  đình hắn, chú là người chở che gánh vác. Lang thang xiêu bạt trên những  nẻo đường đời, của kiếp tha hương, hắn đã lãng quên miền ký ức đẹp đẽ,  quên đi một con NGƯỜI… Chú Cọt ơi ! 
Cả xóm Chợ hầu như nhà  nào cũng chịu ơn chú, cả đời chẳng gây sự với ai. Tức cái gì cũng không  nói được, chỉ biết lấy nắm đấm đưa lên quai hàm của mình mà Cha mi chập  mặt. Cuộc đời chú cũng đủ cả tham- sân- si- hỷ- ái- nộ nhưng trên hết  là những điều tốt đẹp, đức hy sinh và tấm lòng cao cả. 
Xa quê, mỗi dịp tết đến không còn được nghe tiếng lợn kêu, âm thanh khí  tết, chạnh buồn, chắc mùa Xuân chưa đến. Không bóng chú Cọt cầm dao nhọn  đi qua nhà. Giêng hai không còn thấy góc chợ Nồi có chùm bong bóng trâu  bay phấp phới. Không còn nghe tiếng Chập chù chập, chập chù chập tan  vào không gian trong những đêm Hè yên ả. 
Hắn nằm mơ  thấy chú chết. Chú mặc bộ ba bà tím, vai choàng túi giống như hình đứa  trẻ. Hay hành trang của kiếp người mà chú không đành bỏ lại. Cánh hạc về  trời. Không một cánh đồng làng nào mang tên chú, cũng chẳng cần vương  vấn trong trang sử làng quê. Người thuộc về xóm Chợ, thuộc về miền ký ức  sâu thẳm của con trẻ và những mảnh đời lam lũ. Họ đã sống, đã gắn bó  cùng nhau với bao ngọt bùi cay đắng. Trên mảnh đất thân yêu đã sinh ra  chú, dòng người lặng lẽ rưng rưng, chậm chạp cất bước sau chiếc xe tang,  tiễn chú về nơi xa xôi. Đất mẹ bao dung đón chú vào lòng.  
              Trong ráng chiều đỏ rực sau lũy tre làng, bầy chim vỡ tổ xác xao,  từng chùm bong bóng trâu, bong bóng lợn muôn màu được thả ra từ tay của  những vị Thần bác ái… Bay lên! Bay lên mãi./. 
  
TPHCM,  tháng 2/2017.  KMN 		
                          
           
			 |