Có thể nói Nguyễn Công Trứ là Người - Thơ, nghĩa là chỗ nào cũng thơ, cái gì cũng thơ, sống bằng/với thơ, dùng thơ như một công cụ giao tiếp, như vũ khí, như tình ái…
Sau đây là mấy cách Nguyễn Công Trứ “dụng thơ” từ hồi còn trẻ:
Dùng thơ khất nợ
Sau một lần đánh tổ tôm, tay chơi Công Trứ bị thua rồi mang nợ. Chủ nợ là một ông già đòi mãi không được, cuối cùng ông đến tận nhà ăn vạ. Trước mặt ông lão, con nợ lục lọi hết mọi rương hòm xem có gì đáng giá đem đi cầm, nhưng khốn thay chỉ thấy có mấy quyển sách đã cũ sờn. Bí quá, chàng Nho sinh đành phải “cầu cứu” đến… Nàng Thơ, tức cảnh ngâm nga:
Thân "bát văn" tôi đã xác vờ,
Trong nhà còn biết "bán chi" giờ?
Của trời cũng muốn, "không thang" bắc,
Lộc thánh còn mong "lục sách" chờ.
Thiên tử "nhất văn" rồi chẳng thiếu,
Nhân sinh "tam vạn" hãy còn thừa.
Đã không "nhất sách" kêu chi nữa?
"Ông lão" tha cho cũng được nhờ!
Ông lão vốn rắp tâm đến là để đòi cho bằng được nợ, thấy Nguyễn Công Trứ giở thơ thẩn ra đã có ý bực, nhưng rồi nghe hết cả bài thì thấy thơ hay quá, lại tài nữa, câu nào cũng có tên một quân bài tổ tôm mà lại nói lên được cảnh học trò nghèo kiết không tiền... Vừa thương vừa phục, ông lão đã bằng lòng cho nhà thơ khất nợ.
Dùng thơ chuộc tội
Một lần, vì lỡ… si, cậu học trò Trứ táo gan trêu chọc một tiểu thư xinh đẹp nhưng cũng khá kiêu kì bằng cách làm bắn nước bẩn tung toé lên vạt tấm áo lụa mới tinh của nàng. Bị bắt giải vào trình quan Đốc học là cha của cô gái, chàng Nho sinh Nguyễn Công Trứ đã chuộc tội bằng bài thơ tinh nghịch sau:
Thoắt chốc tai nghe một tiếng ồ,
Bầu trời vần vũ kín vầng ô,
Tưởng rằng gió cuốn màn mây lại.
Ai biết trời tuôn lộc nước cho.
Khi nãy nắng nôi ra thế ấy,
Bây giờ mát mẻ biết chừng mô.
Hỡi người ướt áo đừng năn nỉ,
Có rứa rồi ra mới được mùa.
Cả hai cha con quan Đốc học nghe thơ xong tha luôn tội cho Nguyễn Công Trứ, tiểu thư còn đỏ ửng má cúi đầu mỉm cười kín đáo.
Dùng thơ cảm ơn
Một ngày trời nắng chang chang có việc phải đi qua ngọn đèo toàn đá, mà đôi chân hàn sĩ Trứ lại… không giày. Vừa may có hai cô gái gánh giầy đi cùng đường thương tình cho mượn tạm đôi giầy để đi.
Khi đã qua đèo an toàn, chàng học trò Trứ liền cởi giầy, hai tay nâng lên ngang mày trả cho hai cô và xin phép đọc bài thơ “cây nhà lá vườn” gọi là cám ơn:
Lật đật qua đèo nóng nực thay,
Hai cô thương đến lại cho giày.
Ơn này biết lấy chi mà giả,
Xin quỳ hai gối, chống hai tay!
Nghe nói, chàng học trò hiền lành vừa xong câu cuối, hai cô hàng giầy mặt đã đỏ nhừ như say nắng và… ù té chạy!
Dùng thơ khuyên giải
Một lần có chị nhà quê mất mấn! Ròng rã đứng chửi đã hai ngày liền, chị ta doạ sẽ chửi đủ tám ngày nữa mới thôi làm mọi người xung quanh xanh mắt. Đầu xứ Trứ nghe chuyện vừa thương vừa buồn cười, liền làm một bài thơ Nôm khuyên chị ta như sau:
Thằng cha con bợm thật gớm ghê!
Trộm mấn bà đi đã độc hề!
Những chắc ra đi còn có bận,
Nào hay mất trộm lấy chi che?
Thương thay lạnh lẽo ba mùa rét,
Tội nhỉ trần truồng một nố tê!
Của mất, người còn, còn có của,
Thôi thôi đừng chửi, xóm làng chê!
Sau khi nghe bài thơ của Đầu xứ Trứ, chị ta liền thôi không chửi nữa.
Kho tàng giai thoại Việt Nam